Kiệt sức đến mức trầm cảm: "Bóng ma" ám ảnh nhiều dân văn phòng, nỗi thống khổ không của riêng ai mà không có cách nào thoát ra

L.T |

Burnout chẳng chừa một ai, bất kể bạn là nội trợ, quản lý, giáo viên, kĩ sư hay bác sĩ…. Khi bị kiệt sức, hiệu suất làm việc giảm và nỗi sợ thất bại tăng lên.

Kiệt sức có đơn giản là kết quả của việc làm việc quá chăm chỉ? - Josh Cohen, một nhà phân tích tâm lý và tác giả của cuốn sách "Not Working: Why We Have to Stop" (Tạm dịch: Không làm việc: Tại sao chúng ta phải ngừng) cho rằng gốc rễ của vấn đề nằm sâu hơn thế...

Trên tờ The Economist, ông đã có bài viết chia sẻ về vấn đề này và đưa ra những cái nhìn đa chiều để người ta thấy được căn nguyên của tình trạng "Burnout" mà bất kỳ ai cũng có thể gặp phải.

Kiệt sức đến mức trầm cảm: Bóng ma ám ảnh nhiều dân văn phòng, nỗi thống khổ không của riêng ai mà không có cách nào thoát ra - Ảnh 1.

Josh Cohen kể về một trường hợp là bệnh nhân tìm đến ông nhờ giúp đỡ điều trị tâm lý:

Khi Steve lần đầu tiên đến phòng tư vấn của tôi, thật khó để đối mặt với người đàn ông dáng xập xệ ngồi sụp xuống chiếc ghế đối diện. Anh ấy giải thích với tôi rằng gần đây anh ấy đã phải làm việc 90 giờ một tuần tại một ngân hàng đầu tư. Steve mặc bộ quần áo thể thao rộng thùng thình nhàu nhĩ như thể để trong máy giặt lâu không lấy ra, anh ấy dùng tay vén mái tóc chải qua loa, trong khi tôi cố gắng hình dung hình ảnh anh ấy lững thững lết từng bước xuống trong một tòa nhà bằng kính của một công ty nào đó.

Steve lớn lên ở một trong một vùng ngoại ô giàu có. Anh nhớ lại cách cha mẹ mình, hiện đã ly hôn, đẩy những nỗi thất vọng về cuộc hôn nhân không tình yêu, đầy cãi vã của họ vào việc nuôi dạy con trai của họ. Những điểm A xếp thành hàng, băng đội trưởng đội bóng chày và học bổng Ivy League mà anh giành được, anh cảm thấy hầu như tất cả đã được định sẵn từ khi anh được sinh ra.

"Tôi không có cảm giác mình làm được những điều tuyệt vời đó, nó giống như tôi đang vào vai mà họ đã lên kịch bản sẵn cho tôi", Steve bộc bạch. Có vẻ như anh đã sống toàn bộ thời thơ ấu và thời niên thiếu của mình ở chế độ "tự động", anh bận rộn sống theo cuộc sống mà bố mẹ anh mong đợi đến nỗi anh không bao giờ đặt câu hỏi liệu mình có thực sự muốn nó hay không.

Được ngân hàng mời làm việc từ sau khi tốt nghiệp loại ưu ở Paris, Steve đã lao vào làm việc không biết mệt mỏi. Trong 2 năm tiếp theo, anh phụ trách công việc mua lại các công ty với khả năng "tuyệt đỉnh" như anh từng làm để có được thành tích trong học tập và thể thao.

Sau đó, anh nhận ra mình đã dành quá nhiều thời gian chìm đắm trong niềm say mê kỳ lạ tại văn phòng, anh khao khát được về nhà và ngủ. Khi tiếng chuông báo thức hoặc chuông điện thoại đánh thức anh khỏi trạng thái như thể bị thôi miên, Steve rơi vào nỗi hoảng sợ khủng khiếp.

Một ngày sau đó vài tuần, khi chuông báo thức 5h30 sáng vang lên, thay vì nhảy ra khỏi giường, Steve tắt nó đi và nằm đó, nhìn chằm chằm vào bức tường, Steve chắc chắn không đi làm. Sau 6 giờ "trôi dạt" giữa giấc ngủ mơ màng và tình trạng tỉnh táo, anh mặc bộ đồ thể thao và lên đường đến tàu điện ngầm Tesco ở địa phương, chất đầy giỏ đồ ăn sẵn và bánh rán, chế độ ăn kiêng đã thúc đẩy những cuộc ăn chơi trác táng của anh.

3 tháng sau, anh ấy đã trở thành "gã bơ phờ" trước mặt tôi hiện tại. Steve không làm gì cả; cũng không gặp ai cả. Những lời hỏi thăm quan tâm của đồng nghiệp đến liên tục. Steve nhận ra rằng việc chấm dứt hợp đồng lao động không quá nghiêm trọng như anh vẫn tưởng. Anh chỉ nói chuyện với cha mẹ mình ở Chicago thường xuyên khi cần thiết. Họ biết những giờ anh làm việc, vì vậy họ không mong đợi nhận được nhiều cuộc điện thoại từ con trai và thực tế thì Steve cũng chưa bao giờ nói với họ điều gì quan trọng.

Trong bài phân tích của mình, Josh Cohen đặt ra câu hỏi: Có ai dám khẳng định là mình chưa bao giờ rơi vào trạng thái "vô ý thức" như Steve không?

Còn tôi thì có rồi. Tôi đã từng ngồi thụp xuống ghế sofa với đôi mắt đờ đẫn sau một ngày làm việc dài. Sự bơ phờ của tôi bị giằng xé bởi ý nghĩ về một danh sách việc cần làm đang xếp hàng dài, và những tin nhắn chưa đọc và cuộc gọi nhỡ rung lên cách đó vài bước chân. Nhưng cảm giác chán nản của tôi lên đến đỉnh điểm khi tôi thả mắt xuống sàn và nhìn thấy một cái ly hoặc một tờ báo cần nhặt lên.

Nó dường như đột nhiên tỏa ra một lực đẩy khiến tôi không thể duỗi thẳng cẳng tay ra. Tâm trí và cơ thể tôi hét lên để phản đối yêu cầu thái quá của nó rằng tôi phải bẻ cong và lấy nó ra. Tại sao, tôi thầm cầu xin, tôi có nên làm điều này không? Tại sao tôi phải làm bất cứ điều gì một lần nữa?

Burnout là gì và nó ghê gớm cỡ nào?

Chúng tôi thường sử dụng thuật ngữ "Burnout" (kiệt sức) để mô tả trạng thái kiệt sức mà những người như Steve phải chịu đựng. Nó xảy ra khi chúng ta nhận ra mình bị thu phục bởi sự phản kháng bên trong chống lại tất cả các yêu cầu đang tấn công chúng ta từ bên trong và bên ngoài, khi sự phản kháng nhất thời như việc nhặt một chiếc ly trở thành một trạng thái tâm trí liên tục.

"Burnout" đã không trở thành một chẩn đoán được công nhận cho đến năm 1974, khi nhà tâm lý học người Mỹ gốc Đức Herbert Freudenberger áp dụng thuật ngữ này cho ngày càng nhiều trường hợp ông gặp phải: "suy sụp về thể chất hoặc tinh thần do làm việc quá sức hoặc căng thẳng".

Mối quan hệ với căng thẳng và lo lắng là rất quan trọng, vì nó phân biệt sự kiệt cùng sức lực với khái niệm kiệt sức đơn giản.

Kiệt sức đến mức trầm cảm: Bóng ma ám ảnh nhiều dân văn phòng, nỗi thống khổ không của riêng ai mà không có cách nào thoát ra - Ảnh 2.

Những lo lắng về việc kiệt sức dường như có ở khắp mọi nơi trong thời đại ngày nay. Lướt nhanh qua các mặt báo, người ta có thể bắt gặp những câu chuyện về trẻ nhỏ bị "vùi dập" vì thi cử, thanh thiếu niên bị chìm đắm trong thế giới ảo của mạng xã hội, những phụ nữ "bầm dập" bởi nhu cầu cạnh tranh của công việc và trách nhiệm làm mẹ, các cặp vợ chồng thiếu thời gian dành cho nhau và cuộc sống gia đình đầy rẫy vấn đề rắc rối.

Nhưng trong khi nó có vẻ là một vấn đề bắt nguồn từ hoàn cảnh văn hóa của chúng ta, thì kiệt sức đã có một lịch sử kéo dài nhiều thế kỷ. Nhưng phải đến nửa sau thế kỷ 19, người ta mới bắt đầu liên kết tình trạng này với những căng thẳng cụ thể của cuộc sống hiện đại. Năm 1879, nhà thần kinh học người Mỹ George Beard xuất bản cuốn "Neurasthenia (Suy nhược thần kinh): Những nhận xét về cách điều trị", xác định suy nhược thần kinh là một căn bệnh đặc hữu của nhịp sống công nghiệp hiện đại.

Kiệt sức đến mức trầm cảm: Bóng ma ám ảnh nhiều dân văn phòng, nỗi thống khổ không của riêng ai mà không có cách nào thoát ra - Ảnh 3.

Chứng "suy nhược thần kinh vây hãm", nơi hội tụ sự kiệt quệ và nội tâm, dự đoán một cách kỳ lạ về sự kiệt sức của con người ngày hôm nay. Chúng có điểm chung là hệ thần kinh bị quá tải và bị kích thích quá mức.

Thứ gọi là "văn hóa làm việc quá sức" phổ biến trong nhiều ngành nghề, từ ngân hàng đến ngành luật cho đến truyền thông và quảng cáo, y tế, giáo dục và các dịch vụ công cộng khác.

Một nghiên cứu năm 2012 của Đại học Nam California cho thấy rằng cứ 1 trong số 24 nhân viên ngân hàng đều mắc bệnh liên quan đến căng thẳng (chẳng hạn như mất ngủ, nghiện rượu hoặc rối loạn ăn uống) trong vòng một thập kỷ làm việc.

Một cuộc khảo sát lớn hơn vào năm 2014 của eFinancialCareers với 9.000 nhân viên tài chính ở các thành phố trên toàn cầu (bao gồm Hong Kong, London, New York và Frankfurt), cho thấy các nhân viên ngân hàng thường làm việc từ 80 đến 120 giờ một tuần, phần lớn cảm thấy "kiệt sức một phần", 10% đến 20% (tùy thuộc vào quốc gia) tự mô tả bản thân là "hoàn toàn bị kiệt sức".

Một nhân viên ngân hàng trẻ chỉ có thể gặp tôi vào sáng sớm, thời gian rảnh duy nhất trong ngày làm việc của cô ấy. Cô ấy thường trả lời tin nhắn của tôi lúc 3 giờ sáng để cho tôi biết cô ấy sẽ không đến được vì cô ấy vừa rời văn phòng. Khoảng thời gian 1 giờ đồng hồ gặp tôi để thảo luận về vấn đề tâm lý là thời gian mà cô ấy có thể tắt điện thoại và nghỉ ngơi.

Ngày càng có nhiều bệnh nhân của tôi nói rằng họ coi trọng một buổi trị liệu đơn giản là vì nó mang lại cơ hội được nghỉ ngơi.

Kiệt sức đến mức trầm cảm: Bóng ma ám ảnh nhiều dân văn phòng, nỗi thống khổ không của riêng ai mà không có cách nào thoát ra - Ảnh 4.

Về lý thuyết, một chuyến đi bộ hoặc 1 tuần nghỉ mát trên bãi biển sẽ mang lại cảm giác nhẹ nhõm tương tự. Nhưng những nỗ lực phục hồi sức khỏe như vậy thường bị "lu mờ" bởi cảm giác khó chịu, như một bệnh nhân đã nói với tôi rằng cảm giác giống như "bị rình rập" bởi công việc.

Một tình huống khó xử dằn vặt nảy sinh: giữ điện thoại trong túi và liên tiếp nhận các email và tin nhắn liên quan đến công việc; hoặc tắt nó đi và "bị bủa vây" bởi nỗi lo lắng khôn nguôi về việc bỏ lỡ công việc kinh doanh quan trọng.

Sự kiệt sức gia tăng khi công việc ngày càng lấn át bản thân vào mọi ngóc ngách của cuộc sống - nếu bạn có thể dành một giờ rảnh rỗi để đọc một cuốn tiểu thuyết, dắt chó đi dạo hoặc đi ăn cùng gia đình, nó sẽ nhanh chóng bị "phá đám" bởi những suy nghĩ về hạn chót. Ngay cả trong khi ngủ, những hình ảnh chập chờn của bảng tính và những lời nói văng vẳng của sếp vẫn xâm chiếm tâm trí.

Thêm một vấn đề nữa là, không chỉ công việc của chúng ta làm cho trí óc của chúng ta quá tải. Các phương tiện truyền thông xã hội đã và đang thống trị cuộc sống hàng ngày của chúng ta, trong một sự biến đổi chưa từng có và để lại hậu quả mà chúng ta không thể lường trước được.

Kiệt sức đến mức trầm cảm: Bóng ma ám ảnh nhiều dân văn phòng, nỗi thống khổ không của riêng ai mà không có cách nào thoát ra - Ảnh 5.

Đối với các thế hệ trước, trầm cảm có thể là kết quả của những mâu thuẫn nội tại giữa những gì chúng ta muốn làm và những gì mà các nhân vật có thẩm quyền - cha mẹ, giáo viên, tổ chức - muốn ngăn cản chúng ta làm. Nhưng trong xã hội của chúng ta ngày nay, chính cảm giác thiếu thốn chứ không phải xung đột sẽ dẫn đến trầm cảm. Áp lực trở thành người lao động, người yêu, cha mẹ hay người tiêu dùng tốt nhất có thể khiến chúng ta dễ cảm thấy trống rỗng và kiệt sức khi chúng ta không sống theo những lý tưởng này.

Trong cuốn sách "Sự mệt mỏi của bản thân" (xuất bản năm 1998) - một cuốn sách nghiên cứu nổi tiếng về chứng trầm cảm hiện đại - nhà xã hội học người Pháp Alain Ehrenberg lập luận rằng trong xã hội vào những năm 1960, cảm giác tội lỗi và sự vâng lời ít đóng vai trò hơn trong việc hình thành bản thân. Khẩu hiệu của "xã hội thành tựu" là "Tôi có thể" chứ không phải "Tôi phải".

Giữa xã hội đầy bon chen như hiện nay, chúng ta biết rằng chúng ta không thể có tất cả mọi thứ và nên đặt ra giới hạn cho ý thức về bản thân của chúng ta. Chọn làm nhạc trưởng thì bạn chưa chắc đã là nghệ sĩ dương cầm xuất sắc; một người dành 24/24 giờ cho gia đình thì khó đảm đương được chức chủ tịch hội đồng quản trị của công ty. Chúng ta luôn được khích lệ rằng chúng ta có thể trở thành, làm và có bất cứ thứ gì chúng ta muốn nhưng thực tế đâu đơn giản đến thế.

Nhà xã hội học Ehrenberg gợi ý rằng sự "kiệt sức tới mức trầm cảm" khiến bạn cảm thấy không có khả năng đưa ra những lựa chọn có ý nghĩa. Như chúng tôi đã phát hiện ra trong quá trình phân tích, đây là tình trạng khó khăn của Steve.

Trong ngôi nhà thời thơ ấu lạnh lẽo của anh ấy, sự quan tâm duy nhất mà anh nhận được từ cha mẹ là sự giám sát chặt chẽ của họ đối với bài tập ở trường và các hoạt động ngoại khóa. Trong suy nghĩ của riêng mình, anh ấy đáng được quan tâm chỉ vì những thành tích của mình. Vì vậy, trong khi tích lũy các giải thưởng, kiến thức và kỹ năng, anh ấy chưa bao giờ học cách tò mò về việc anh ấy có thể là ai hoặc anh ấy có thể muốn gì trong cuộc sống. Sau khi chấp nhận một cách thiếu suy nghĩ về những điều cha mẹ mặc định là tốt nhất cho mình, anh chỉ đơn giản là không biết cách đối phó, hoặc có cảm giác bất ngờ rằng cuộc sống anh đang sống không phải là cuộc sống dành cho anh.

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại