Trong hậu cung chỉ có một người đàn ông duy nhất, đó chính là Hoàng đế, là Thiên tử, còn lại là Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu, Công chúa, Hoàng tử và Nữ quan, thị nữ hầu hạ. Cũng như những triều đại phong kiến khác, triều Nguyễn ở Việt Nam cũng tuyển chọn Thái giám để chăm sóc Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu, giám sát đội ngũ phi tần, cung nữ, Hoàng hậu và Công chúa.
Cách tuyển chọn thái giám
Dưới triều Nguyễn, việc tuyển chọn thái giám vào cung chủ yếu từ hai nguồn. Nguồn thứ nhất là những cậu bé sinh ra đã không có bộ phận sinh dục nam giới (gọi là giám sinh). Làng nào có cậu bé như vậy được xem như một điềm tốt, dành để tiến cử cho vua, cả làng đó sẽ được bổng lộc vua ban. Tuy nhiên, những đứa trẻ bất lực bẩm sinh thường khó phát hiện và không an toàn tuyệt đối vì tính cách của những con người khiếm khuyết này đôi khi bất thường.
Do đó, việc tuyển chọn tới từ nguồn thứ hai sau đây phổ biến hơn. Đó là những gia đình sinh con nhưng hoàn cảnh quá nghèo khổ, tự nguyện cho con làm thái giám sau khi đã trải qua đau đớn để loại bỏ bộ phận sinh dục nam. Họ chấp nhận thân phận không đàn ông cũng chẳng đàn bà, sống phục vụ trong Hoàng cung trọn đời.
Qua vòng tuyển chọn, những thái giám nhí được đưa vào cung để một thái giám có thâm niên dạy các nghi thức khắt khe của cung đình: từ việc đi đứng cho tới cách ăn mặc, bẩm thưa. Có nhiều đứa trẻ mới lên 7 đã được đưa vào cung học phép tắc thái giám.
Việc lựa chọn người để ân ái là do vua quyết định, nhưng các thái giám cũng có nhiều mánh khóe, thì thầm to nhỏ với nhà vua về việc nên chọn ai. Do đó, nhiều thái giám hay được các bà đút lót quà bánh để được vua sủng ái. Có nhiều bà do khinh thường thái giám nên suốt thanh xuân cô quạnh trong cung cấm, không một lần được thấy mặt Thiên tử.
Thái giám và sự hạn chế quyền lực dưới triều Nguyễn
Thái giám là những người có cơ hội tiếp xúc thân cận nhất với vua trong hậu cung, là người biết và hiểu rõ đời tư của Thiên tử. Vì vậy, để tránh sự lộng quyền của các thái giám trong chốn cung cấm, nhà Nguyễn đã sử dụng hệ thống thái giám trong hậu cung vào việc sai vặt và nhất định không cho can dự vào chuyện triều chính.
Thái giám chỉ để truyền giao các mệnh lệnh của triều đình. Nhưng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, có những thái giám được triều đình trọng dụng nhờ có tài như Tả quân Lê Văn Duyệt. Ông là một người văn võ song toàn và rất đặc biệt khi xuất thân từ thái giám, từ người hậu cận thân tín của vua Gia Long.
Sau này, ông là một công thần trụ cột của triều Nguyễn và là nhà quân sự tài ba, không những giữ vững bờ cõi miền Nam mà còn có uy lực với các nước láng giềng, tạo quan hệ buôn bán giao thương với các cộng đồng cư dân phương Nam. Ông cũng là người được vua Gia Long đặc biệt coi trọng.
Tả quân Lê Văn Duyệt.
Là người có công rất lớn trong việc khôi phục lại giang sơn của nhà Nguyễn nên ông được vua Gia Long giao chức Tổng trấn, quyết định nhiều việc quan trọng ở vùng Gia Định, Đồng Nai từ thời vua Gia Long tới thời vua Minh Mạng. Có nhiều việc Lê Văn Duyệt quyết định ngoài ý muốn của vua, điều đó đã làm vua Minh Mạng lấy làm khó chịu và bất bình. Đây cũng là nguồn gốc dẫn tới một cuộc binh biến lớn sau này.
Vào ngày 1/12 năm Minh Mạng thứ 17 tức ngày 17/3/1836, vua Minh Mạng đã ra một chỉ dụ nhằm chấm dứt những sự lạm dụng thái quá của các thái giám dưới triều Minh Mạng. Từ đó, các thái giám sống ngoài lề so với các quan chức khác trong cung. Họ không được tham dự chuyện triều chính, chỉ phục vụ nội cung, lo hầu hạ đời sống thường nhật của hậu cung.
Trong tờ dụ này, vua Minh Mạng nói rõ rằng từ nay về sau, thái giám không được có danh tước gì, và trong bất kì trường hợp nào, họ cũng không thể được tiến cử vào hệ thống quan lại. Thái giám nào phạm tội bất tuân các luật lệ mới được nêu trong tờ dụ này sẽ bị trị tội rất nặng, không hi vọng được khoan dung. Đồng thời, ra lệnh là nội dung của tờ dụ phải được khắc vào bia, trước trường Quốc Tử Giám Văn Thánh để tất cả các thái học sinh hiểu và truyền về sau cho hậu thế.
Lương bổng của một thái giám
Nội dung của bản dụ là các thái giám không được đưa vào ngành quan trường nên đã tạo ra cho họ một hệ thống giai cấp đặc biệt để sắp xếp các ngạch, bậc và quy định lương bổng bằng lúa và quan tiền. Đến đời vua Đồng Khánh năm thứ 2 (1887), có một vài thay đổi về lương tính bằng quan tiền được tăng lên.
Đến đời vua Thành Thái năm thứ 2 (1890), lương của thái giám hàng tháng nhận bằng lúa và quan tiền bị bỏ hẳn, thay bằng đồng bạc. Đến thời vua Duy Tân năm thứ 6 (1912), lương bổng của thái giám được quy định lại.
Khi vua Minh Mạng cho ra tờ dụ vào năm 1836, bản thân các thái giám không được hưởng bất kì một vinh dự nào giống như các quan chức khác ở trong cung.
Tuy nhiên, các thái giám lại mang về cho người thân một vài vinh dự như theo quy định, các thái giám nằm trong 3 hạng Thủ đẳng, Thứ đẳng, Trung đẳng có thể đứng ra xin cho cha họ chức Nhiêu phụ. Đây là chức được vĩnh viễn miễn thuế hay có thể xin phong chức Miễn nhiêu tức là miễn đóng thuế thân cả đời cho những người thân ruột thịt trong gia đình.