Vị thần thám cả đời thanh liêm
Trải qua bao thăng trầm trên con đường quan lộ, dù được thăng quan hay bị giáng chức, mỗi khi đảm nhận nhiệm vụ, Địch Nhân Kiệt đều lấy dân, lấy nước làm gốc, đạt được nhiều công lao cái thế.
Khi còn là Tể tướng, ông có công phụ quốc, an bang, nhiều lần giúp Võ Tắc Thiên tu chỉnh triều chính, trở thành một đại công thần đưa Đường triều bước trên con đường phồn vinh.
Khi bị giáng chức và điều động về Bành Trạch, vị thần thám này vẫn luôn cần kiệm, thương dân.
Cũng vào khoảng thời gian ấy, Bành Trạch hạn hán nặng nề, nhân dân đói kém, Địch Nhân Kiệt đích thân dâng tấu lên triều đình xin cứu tế, miễn giảm tô thuế, giúp bạch tính nơi đây vượt qua giai đoạn khó khăn.
Sinh thời, Địch Nhân Kiệt được nhân dân yêu kính nhờ tài năng và đức độ. (Ảnh minh họa).
Tháng 10 năm Vạn Tuế Thông Thiên thứ nhất (696), người Khiết Đan công hãm Ký Châu. Để ổn định tình hình, Võ Tắc Thiên cử Địch Nhân Kiệt nhậm chức Thứ sử Ký Châu và Ngụy Châu.
Thứ sử Ngụy Châu trước đó là Độc Cô Tư Trang vì lo ngại thế giặc, đã hạ lệnh cho dân chúng rời bỏ nhà cửa để vào trong thành lánh nạn. Tuy nhiên, sự điều động này khiến dân chúng càng thêm lo sợ, phẫn nộ.
Sau khi tới đây nhậm chức, Địch Nhân Kiệt nhận thấy quân Khiết Đan còn ở xa, đã khuyến khích dân chúng trở về nhà. Sau khi biết tin, quân giặc đi đường vòng lên phía bắc, Ngụy Châu nhờ vậy mà tránh được một đại nạn binh đao.
Ghi nhớ công ơn của vị Thứ sử lúc bấy giờ, dân chúng nơi đây đã lập một tấm bia ghi tạc công đức Địch Nhân Kiệt.
Tiếc thay “hổ phụ" lại sinh... "khuyển tử"
Sinh thời, Địch Nhân Kiệt có ba người con trai. Trưởng nam là Địch Quang Tự, làm quan tới chức Lang trung bộ hộ. Con thứ là Địch Quang Viễn, chức vụ cao nhất từng đảm nhiệm là Ti mã.
Con trai út của Địch Nhân Kiệt là Địch Quang Chiêu (tự Tử Lương), sau đổi tên thành Địch Quang huy, làm quan tới chức Phương viên Ngoại Lang.
Noi gương người cha cả đời vì dân, vì nước, hai người con đầu của Địch Nhân Kiệt đều hết mực thanh liêm, chuyên tâm với trách nhiệm. Duy chỉ có “khuyển tử” Địch Cảnh Huy bị coi là một “vết đen” trong cuộc đời của thần thám họ Địch.
Nhắc tới người con trai thứ ba này, "Tân Đường Thư" và "Cựu Đường Thư" đều dùng những lời lẽ không mấy tốt đẹp.
Sinh thời, Địch Cảnh Huy nối gót cha và hai anh, thuận lợi bước vào đường quan lộ. Khi mới nhậm chức, Cảnh Huy hết sức cẩn trọng, đúng mực.
Nhưng càng thăng tiến, người con thứ ba này lại càng bị cám dỗ bởi công danh, lợi lộc.“Cựu Đường Thư” từng đánh giá Địch Cảnh Huy “là người tham bạo, đối nhân xử thế tàn ác”.
Thanh danh cả đời của Địch Nhân Kiệt lại bị "bêu rếu" bởi người con trai út thất đức. (Ảnh minh họa).
Khi nhậm chức tham quân (quan thanh tra) tại Ngụy Châu, họ Địch này điên cuồng vơ vét, khiến lòng dân oán hận khôn nguôi.
Ngay trên mảnh đất cha ruột từng lập công, Địch Cảnh Huy lại “bôi đen” thanh danh nhà họ Địch bằng lòng tham và sự thất đức của mình. Vì quá bất mãn, dân chúng Ngụy Châu đã đập tan tấm bia ghi công đức năm xưa của Địch Nhân Kiệt.
Khi sự việc bị phát giác, Địch Nhân Kiệt vô cùng tức giận với đứa con bất hiếu này. Ông thẳng tay bãi chức, cắt bổng lộc của Địch Cảnh Huy.
Lúc đó, không ít vị đại thần ra mặt biện hộ, bản thân Cảnh Huy cũng quỳ xuống, khóc lóc xin cha tha thứ, nhưng Địch Nhân Kiệt vẫn “công tư phân minh”, kiên quyết phạt nặng con trai.
Khi ấy, vị thần thám họ Địch thẳng thắn nói: “Người hiền được nâng đỡ, kẻ tham phải chịu phạt. Đó chính là đạo lý dùng người, cũng là cách để chấn hưng đất nước.”
Địch Nhân Kiệt cả đời thanh chính, liêm khiết, luôn một lòng vì nước, vì dân, được bách tính yêu mến mà lập “Đức chính bia”.
Nhưng tiếc thay “hổ phụ sinh khuyển tử”, chỉ vì lòng tham của con trai ruột mà công đức bị tổn hại, ngay đến tấm bia lưu danh cũng bị nhân dân “giận cá chém thớt” mà đập nát.
Bình luận về sự việc này, học giả Triệu Dực đời nhà Thanh từng thở dài cảm thán: “Âu cũng là do con trai bại đức khiến cả gia đình mất danh dự!”
Có một người con trai như Địch Cảnh Huy, hình tượng và công đức của Địch Nhân Kiệt ít nhiều bị “bôi đen”. Hậu thế cũng càng thêm hiểu rõ: những chân lý như “hổ phụ sinh hổ tử”,“cha anh hùng, con hảo hán” không phải lúc nào cũng đúng.