Cần tính đúng về năng suất lao động người Việt
"Năng suất lao động Việt Nam thực sự có thấp so với các nước trong khu vực hay không?", TS. Nguyễn Tú Anh - Vụ trưởng, Giám đốc Trung tâm thông tin, Phân tích và Dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương - đặt câu hỏi tại Diễn đàn nâng cao năng suất lao động quốc gia năm 2024 mới đây.
TS. Tú Anh phân tích, năng suất lao động (NSLĐ) quốc gia là thước đo hoạt động kinh tế của một quốc gia, tính toán so sánh lượng giá trị gia tăng được tạo ra tính trên một đầu vào lao động. Theo nghĩa đó, NSLĐ được tính bằng GDP chia cho số lao động có việc làm trong năm.
Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) thì NSLĐ của Việt Nam năm 2022 tính bằng USD 2017 theo ngang giá sức mua PPP là 2.400 USD, chỉ bằng 11,4% so với Singapore, 35,4% so với Malaysia, 79% so với Indonesia…
"Tuy nhiên, nếu nhìn con số này thì NSLĐ của chúng ta thấp, do cơ cấu nền kinh tế Việt Nam phần lớn lao động làm việc trong khu vực phi chính thức và hộ gia đình, số lượng lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp chỉ chiếm 29,2% lao động có việc làm trong năm 2022".
"Mặc dù vậy số lượng lao động này lại tạo ra khoảng 60% GDP cho cả nền kinh tế (khu vực tư nhân tạo ra khoảng 10%, khu vực doanh nghiệp FDI tạo ra khoảng 20,14% và khu vực doanh nghiệp nhà nước tạo ra khoảng 29% GDP)", ông Tú Anh phân tích.
GDP của Việt Nam năm 2022 theo ngang giá sức mua PPP bằng đồng USD 2017 là 1.321 tỷ USD. TS Tú Anh tính toán, với việc tạo ra 60% GDP từ khối phi chính thức, năng suất lao động của các lao động trong doanh nghiệp Việt Nam, nếu tính đủ, sẽ tạo ra là 53.582 USD/lao động/năm.
"Như vậy sẽ bằng 30% so với lao động của Singapore là làm việc tại doanh nghiệp hoặc cơ quan nhà nước. Với con số này thì NSLĐ của người lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam sẽ bằng khoảng 30% NSLĐ của người lao động trong các doanh nghiệp Singapore", Giám đốc Trung tâm thông tin, Phân tích và Dự báo kinh tế tính toán.
Học cách tăng năng suất lao động của Trung Quốc: Tăng lương tối thiểu, buộc doanh nghiệp phải đổi mới
Mặc dù năng suất lao động tăng đáng kể sau khi tính lại, ông Tú Anh thừa nhận NSLĐ của Việt Nam vẫn khá thấp.
Cụ thể, NSLĐ của khu vực doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam còn quá thấp. Các doanh nghiệp tư nhân tạo ra khoảng 59% việc làm trong khu vực doanh nghiệp nhưng chỉ đóng góp giá trị gia tăng bằng 1/6 của toàn bộ khu vực doanh nghiệp, nên NSLĐ trong khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt Nam chỉ bằng 3,6% khu vực DNNN và 28,5% khu vực doanh nghiệp FDI (tính toán dựa trên số liệu GDP năm 2021 và tỉ lệ đóng góp vào GDP của các khu vực kinh tế năm 2021 không thay đổi đáng kể so với năm 2020).
Trong giai đoạn 2018-2022 mặc dù bị ảnh hưởng bởi COVID-19 nhưng năng suất lao động của Việt Nam vẫn tăng bình quân 7,06%/năm. Những ngành có NSLĐ cao vượt trội so với mức trung bình của cả nước lại có tỷ trọng lao động rất thấp trong tổng lao động, các ngành này chỉ chiếm 10,28% tổng số lao động có việc làm.
"Vì vậy, chúng ta thấy rằng có một dư địa rất lớn để dịch chuyển lao động từ khu vực NSLĐ thấp hơn sang khu vực NSLĐ cao hơn để tăng NSLĐ", ông Tú Anh nói.
Bên cạnh đó, ông Tú Anh cũng kiến nghị từ góc nhìn vĩ mô, một trong những việc cần làm để tăng NSLĐ là đẩy nhanh phát triển nhiều hơn nữa hệ thống doanh nghiệp nhiều hơn mục tiêu 1,5 triệu doanh nghiệp vào năm 2025, một mục tiêu quan trọng để thúc đẩy NSLĐ.
Ngoài ra, Giám đốc Trung tâm thông tin, Phân tích và Dự báo kinh tế cho rằng cần tạo sức ép cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ bằng cách điều chỉnh tăng lương tối thiểu hợp lý.
"Trên thực tế nếu tiền lương được duy trì ở mức thấp sẽ tạo hiệu ứng ngược lại doanh nghiệp không có nhu cầu đổi mới công nghệ vì vẫn có thể khai thác tiền lương thấp với công nghệ cũ, người lao động không có động lực nâng cao tay nghề vì giá trị của việc nâng cao tay nghề không tương xứng".
"Ví dụ, Trung Quốc luôn chủ động nâng cao tiền lương tối thiểu từ 690 tệ năm 2006 lên 2600 tệ/tháng năm 2021 nhưng không làm giảm đầu tư mà ngược lại đầu tư tăng, NSLĐ tăng. Tuy nhiên nếu tăng tiền lương tối thiểu quá nhanh có thể làm chùn ý nhà đầu tư. Do đó trong vấn đề cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chủ doanh nghiệp, công đoàn và cơ quan quản lý nhà nước để tạo ra lợi ích chung", ông Tú Anh gợi ý.