Một binh sĩ vác tên lửa Javelin trong cuộc tập trận gần Rivne, Ukraine. Ảnh: Reuters
Cuộc xung đột Nga-Ukraine đang gây ảnh hưởng lớn đến ngành công nghiệp vũ khí toàn cầu. Trong khi Mỹ và các đồng minh đổ một lượng tiền lớn vào việc trang bị vũ khí cho Ukraine, thì nhiều quốc gia trên thế giới đang xem xét gia tăng ngân sách quốc phòng, nhu cầu vũ khí và các mối quan hệ quân sự.
Một số nước trước đây có mức chi tiêu quốc phòng thấp chẳng hạn như Nhật Bản và Đức đang tìm cách đảo ngược quan điểm truyền thống, tăng cường mua sắm trang thiết bị và vũ khí.
Là một bên trong cuộc xung đột Ukraine, ưu thế của Nga trên thị trường vũ khí đang có xu hướng giảm do ảnh hưởng của các lệnh trừng phạt và những thiệt hại trong giao tranh, trái lại Mỹ và Trung Quốc dường như âm thầm hưởng lợi với việc mở rộng thị trường và có nhiều khách hàng hơn.
Theo các nhà phân tích, cuộc chiến dù kết thúc như thế nào thì tác động của nó đối với ngành công nghiệp quốc phòng toàn cầu và với những quốc gia có các công ty thống trị lĩnh vực này cũng sẽ rất lớn.
Nga giảm ưu thế trên thị trường vũ khí
Vũ khí Nga được cho là có giá thành phải chăng và dễ bảo trì hơn so với các lựa chọn thay thế của phương Tây. Đây là lý do khiến Nga chiếm 19% kim ngạch xuất khẩu vũ khí trên toàn cầu trong giai đoạn từ năm 2017 đến 2021, chỉ đứng sau Mỹ - nước dẫn đầu chiếm 39% tổng lượng vũ khí xuất khẩu. Ấn Độ là khách hàng lớn nhất của Nga, chiếm tới 23% tổng xuất khẩu, trị giá 6,6 tỷ USD trong vòng 5 năm qua. Tiếp đến là Ai Cập và Trung Quốc
Nhưng hiện nay, ngành công nghiệp quốc phòng của Nga đang gặp nhiều khó khăn do phải dồn sức cho cuộc chiến tại Ukraine. Mặc dù đạt được nhiều bước tiến tại khu vực miền Đông Ukraine, nhưng quân đội Nga cũng chịu tổn thất không hề nhỏ về nhân lực và vật lực. Theo ước tính của Mỹ, Nga đã mất gần 1.000 xe tăng, ít nhất 50 máy bay trực thăng, 36 máy bay ném bom và 350 khẩu pháo.
Chưa kể, nhiều khách hàng truyền thống đang e ngại mua vũ khí của Nga do khả năng thay thế phụ tùng bị cản trở bởi các biện pháp trừng phạt kinh tế. Nga là một trong những nước xuất khẩu vũ khí lớn nhất thế giới, nhưng lại phụ thuộc lớn vào linh kiện nhập khẩu.
Kể từ khi phương Tây công bố lệnh hạn chế xuất khẩu thiết bị bán dẫn, máy tính, laser, thiết bị viễn thông và các hàng hóa khác cho Nga từ hồi tháng 2, Nga gặp không ít khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn cung chip cho các vũ khí dẫn đường chính xác.
Điều này đồng nghĩa với việc, những quốc gia muốn tiếp tục mua xe tăng và máy bay chiến đấu của Nga sẽ phải xếp hàng chờ đợi hoặc tìm đến một nhà xuất khẩu khác để đáp ứng nhu cầu quốc phòng của họ.
Trung Quốc để mắt gia tăng xuất khẩu
Giới phân tích cho rằng, quốc gia được hưởng lợi lớn trong giai đoạn này là Trung Quốc. Trong những năm gần đây, nước này đã chiếm 4,6% thị phần vũ khí toàn cầu, đứng thứ 4 sau Pháp với 11%. Trung Quốc cũng là quốc gia có 7 trong số 20 công ty quốc phòng đứng đầu thế giới về doanh thu bán vũ khí.
Hiện, các nhà sản xuất vũ khí của Trung Quốc đang cung cấp phần lớn vũ khí cho thị trường nội địa, nhưng họ cũng có khả năng xuất khẩu nhiều trang thiết bị quốc phòng ra nước ngoài.
Trung Quốc là nước đóng tàu lớn nhất thế giới vì vậy trong thời gian tới, nước này có thể để mắt đến việc xuất khẩu nhiều tàu hải quân hơn nữa. Bắc Kinh cũng đang phát triển công nghệ chế tạo máy bay không người lái và nỗ lực hiện đại hóa lực lượng không quân bằng các loại máy bay được sản xuất ở trong nước.
Trong số 49 nhà nhập khẩu vũ khí lớn nhất thế giới, chỉ có 3 quốc gia là Pakistan, Bangladesh và Myanmar mua số lượng lớn vũ khí từ Trung Quốc. Nhưng điều này có thể thay đổi nếu Bắc Kinh tận dụng khó khăn hiện nay của Nga để tự khẳng định mình là một đối tác an ninh, kinh tế đáng tin cậy.
Trung Quốc không có khả năng thay thế vị trí của Mỹ và châu Âu - vốn được coi là những nhà xuất khẩu “đứng đầu” về chất lượng và giá cả. Nhưng Bắc Kinh có thể lấp đầy những thị trường ngách mà các nhà sản xuất vũ khí của Nga đang chiếm ưu thế và thu được những lợi ích về kinh tế, chính trị. Tuy vậy, một trong những thách thức lớn nhất với Bắc Kinh là phải chứng minh được vũ khí của họ hoạt động tốt trong các tình huống chiến đấu trực tiếp.
Mỹ hưởng lợi nhiều nhất?
Các nhà sản xuất vũ khí của Mỹ đang thống trị ngành công nghiệp vũ khí toàn cầu và cuộc xung đột Nga-Ukraine dường như không làm thay đổi thực tế này.
5 tập đoàn sản xuất vũ khí lớn nhất thế giới đều thuộc về Mỹ, gồm Lockheed Martin, Raytheon, Boeing, Northrop Grumman và General Dynamics. Trong số 100 nhà sản xuất vũ khí hàng đầu, 50 công ty có trụ sở tại Mỹ, 20 có trụ sở tại châu Âu và chỉ có 2 công ty tại Nga dù quốc gia này là nhà cung cấp vũ khí lớn thứ 2 thế giới.
Quyết định Mỹ tăng cường viện trợ quân sự cho Ukraine sẽ khiến các nhà sản xuất vũ khí của nước này bận rộn trong thời gian tới. Chẳng hạn, việc Mỹ cung cấp khoảng 1/3 kho tên lửa chống tăng Javenlin cho Ukraine sẽ khiến liên doanh Raytheon-Lockheed Martin mất từ 3 đến 4 năm để sản xuất các tên lửa thay thế chúng.
Giá cổ phiếu của các công ty nói trên tăng vọt là dấu hiệu cho thấy các nhà đầu tư tin rằng xuất khẩu vũ khí sẽ là lĩnh vực sinh lời lớn bất chấp suy thoái kinh tế. Giá cổ phiếu của Lockheed Martin đã tăng hơn 12% kể từ khi xung đột Nga-Ukraine nổ ra. Cổ phiếu của Northrop Grumman cũng tăng 20%. Trong khi thị trường chứng khoán Mỹ nhìn chung sụt giảm khoảng 4%, theo đánh giá của S&P 500.
Nhiều quốc gia sẽ trở thành nhà sản xuất vũ khí
Nhiều quốc gia đang tìm cách “tự lực tự cường” trong việc đáp ứng các nhu cầu quốc phòng của họ thay vì phụ thuộc vào quốc gia khác. Ấn Độ - nước phụ thuộc nhiều vào vũ khí nhập khẩu từ Nga, thời gian dần đây đang nhận ra rằng, Moscow sẽ cần phải cải thiện đáng kể năng lực sản xuất để thay thế các xe tăng, tên lửa, máy bay và các loại vũ khí khác đã qua sử dụng hoặc bị mất trên chiến trường Ukraine vì thế chắc chắn họ sẽ cắt giảm việc xuất khẩu.
New Delhi đang chuyển hướng sang các công ty sản xuất vũ khí trong nước và phát triển ngành công nghiệp quốc phòng của riêng mình. Hồi tháng 4 vừa qua, Ấn Độ tuyên bố sẽ tăng cường sản xuất máy bay trực thăng, động cơ xe tăng, tên lửa và hệ thống cảnh báo sớm trên không để bù đắp cho sự sụt giảm lượng vũ khí nhập khẩu của Nga.
Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều thị trường mới nổi khác cũng nỗ lực phát triển các ngành công nghiệp quốc phòng trong 2 thập kỷ qua để giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu vũ khí. Và cuộc chiến Nga- Ukraine dường đang góp phần đẩy nhanh quá trình này./.