Đầu năm 1916, Hải quân Mỹ đã bắt đầu thiết kế các tàu bay thể rắn nhẹ hơn không khí. Cho đến năm 1926, nỗ lực này tập trung vào việc trang bị cho các tàu bay có khả năng trinh sát trên không.
Tàu sân bay trên không đầu tiên của Mỹ mang tên USS Akron (ZRS-4) đã đi vào hoạt động năm 1931. Tuy nhiên, sau một số tai nạn xảy ra trong 2 năm, nó đã bị chìm xuống khu vực gần bờ biển New Jersey năm 1933 khiến 73 trong số 76 người trên tàu thiệt mạng.
Sau khi sự cố với tàu Akron xảy ra khoảng 1 tháng rưỡi, tàu sân bay trên không USS Macon đã đi vào hoạt động. Macon sau đó do đại úy Hải quân Herbert Wiley, có căn cứ tại California chỉ huy. Ông là một trong số ít những người sống sót sau tai nạn tàu Akron.
USS Macon luôn sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ và tham gia vào các cuộc tập trận quân sự trong 2 năm.
Tàu sân bay trên không Macon đã thực hiện được ý tưởng vận hành, phóng và phục hồi những chiếc máy bay 5 chỗ ngồi với 2 tầng cánh Curtiss F9C Sparrowhawk qua một "thang đu". Những chiếc máy bay này thường bỏ đi bộ phận hạ cánh khi vận hành nên các phi công phải vô cùng thận trọng.
Ngày 12/2/1935, tàu sân bay USS Macon gặp bão ở ngoài khơi Point Sur, California và sau nhiều nỗ lực chống đỡ không thành, nó đã lao xuống biển.
Tuy nhiên, tàu bay này rơi khá chậm nên phi hành đoàn có đủ thời gian để mặc áo phao cứu hộ. Một thành viên nhảy ra ngoài ở độ cao quá lớn và một người quay lại con tàu chìm để lấy đồ đạc cá nhân nên đã thiệt mạng, trong khi 74 người còn lại được cứu sống.
Tàu sân bay trên không của Mỹ USS Akron và USS Macon sẵn sàng phục vụ cho hạm đội với vai trò như những tàu mẹ có khả năng tình báo, giám sát và do thám.
Dù những tàu sân bay "nhẹ hơn không khí" này có thể đáp ứng những yêu cầu nhất định nhưng chúng vẫn khá khó để điều khiển.
Tàu sân bay trên không cuối cùng của hải quân Mỹ USS Macon bay trên bầu trời New York khoảng năm 1933 – 1934.
USS Macon bay lên từ cảng San Diego ngày 9/2/1934.
Một máy bay 2 tầng cánh Curtiss F9C-2 Sparrowhawk được gắn kèm với tàu sân bay trên không USS Macon năm 1934.