Những thay đổi của F-22 so với YF-22
Tên gọi Lightning II của F-22 kéo dài tới giữa những năm 1990, khi Không quân Hoa Kỳ chính thức đặt tên cho chiếc máy bay là Raptor. F-35 sau đó đã nhận tên Lightning II vào năm 2006.
Nhà thầu chính là Lockheed Martin Aeronautics, sản xuất các thành phần chính của khung máy bay và thực hiện khâu lắp ráp cuối cùng tại căn cứ Dobbins ở Marietta, Georgia.
Đối tác của chương trình là Boeing Defense, Space & Security cung cấp các thành phần phụ của khung máy bay cũng như các hệ thống điện tử hàng không tích hợp và hệ thống huấn luyện.
Công việc sản xuất F-22 được tách ra cho nhiều nhà thầu phụ trên khắp 46 tiểu bang để tăng cường hỗ trợ của Quốc hội, điều này giúp giảm chi phí ban đầu nhưng lại tăng tổng chi phí chương trình. Quá trình sản xuất F-22 hỗ trợ hơn 1.000 nhà thầu phụ và cung cấp đến 95.000 việc làm cho người dân.
Chiếc F-22 đã có một số thay đổi thiết kế từ YF-22. Các góc xuôi sau của mép cánh trước giảm từ 48° đến 42°, trong khi cánh đuôi đứng được dịch chuyển về phía sau và giảm diện tích xuống khoảng 20%.
Để cải thiện tầm nhìn cho phi công, nắp buồng lái được di chuyển về phía trước 18 cm và cửa hút khí của động cơ di chuyển về phía sau 36 cm. Hình dạng cánh tà và cánh đuôi ngang cũng được thiết kế lại để cải thiện khí động học, sức mạnh và đặc tính tàng hình.
Việc tăng trọng lượng trong thời gian phát triển gây ra sự giảm nhẹ của tầm bay và khả năng cơ động.
Chiếc F-22 đầu tiên - chiếc máy bay sản xuất để biểu diễn kỹ thuật và phát triển (Engineering Manufactured Development/EMD) tên là Raptor 01 (c/n-41-4001) được công bố tại Marietta, Georgia vào ngày 9/4/1997 và bay lần đầu tiên vào ngày 7/9/1997.
Năm 2006, nhóm phát triển của Raptor, bao gồm hơn 1.000 nhà thầu và Không quân Mỹ đã giành giải Collier, phần thưởng uy tín nhất của ngành hàng không Mỹ. F-22 được sản xuất trong 15 năm qua với tốc độ khoảng 2 chiếc mỗi tháng trong thời kỳ cao điểm của việc sản xuất.
Công việc sản xuất và mua sắm
Không quân Mỹ lúc đầu đặt hàng 750 chiếc F-22 với chi phí khoảng 26,2 tỷ USD, việc sản xuất bắt đầu từ năm 1994.
Năm 1990, Bộ trưởng Quốc phòng Dick Cheney giảm số lượng xuống còn 648 máy bay bắt đầu từ năm 1996. Đến năm 1997, do kinh phí không ổn định đã tiếp tục cắt giảm xuống còn 339 chiếc, và một lần nữa giảm xuống còn 277 chiếc F-22 vào năm 2003.
Năm 2004, Bộ Quốc phòng Mỹ (DoD) tiếp tục giảm xuống còn 183 máy bay, mặc dù Không quân Mỹ muốn trang bị 381 chiếc. Năm 2006, một kế hoạch mua sắm nhiều năm đã được thực hiện để tiết kiệm 15 tỷ USD nhưng tăng chi phí của mỗi máy bay.
Năm đó tổng chi phí của chương trình đã được dự báo là 62 tỷ USD cho 183 chiếc F-22 được phân phối cho 7 phi đội chiến đấu. Năm 2007, Lockheed Martin nhận được hợp đồng trị giá 7,3 tỷ USD để tăng số lượng đặt hàng là 183 chiếc F-22 và mở rộng sản xuất đến 2011.
Vào tháng 4/2006, Văn phòng Kiểm toán Chính phủ (Government Accountability Officer/GAO) đánh giá chi phí của F-22 là 361 triệu USD cho mỗi máy bay, với 28 tỷ USD đầu tư vào phát triển và thử nghiệm; Chi phí mua sắm ước tính khoảng 178 triệu USD trong năm 2006, dựa trên số lượng sản xuất 181 máy bay.
Nó được ước tính bằng cách kết thúc sản xuất, 34 tỷ USD sẽ được chi cho việc mua sắm. Kết quả, tổng chi phí chương trình là 62 tỷ USD, khoảng 339 triệu USD/chiếc.
Chi phí gia tăng cho việc sản xuất thêm F-22 được ước tính khoảng 138 triệu USD vào năm 2009. Đến tháng 3/2012, GAO tăng chi phí ước tính lên 412 triệu USD cho mỗi máy bay.
Trong suốt những năm 2000, sự cần thiết của F-22 đã được tranh luận do chi phí tăng cao và do thiếu các đối thủ tương xứng. Trong năm 2006, Tổng Kiểm soát viên của Mỹ David Walker thấy rằng "Bộ Quốc phòng đã không chứng minh được sự cần thiết" để đầu tư thêm vào F-22.
Sau đó, phe đối lập không ủng hộ phát triển tiếp chương trình này gồm Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld, Thứ trưởng Quốc phòng R. Gordon England, Thượng nghị sĩ John McCain và Chủ tịch Ủy ban Thượng viện Mỹ về Quân vụ Thượng nghị sĩ John Warner.
Chương trình F-22 bị mất người ủng hộ có ảnh hưởng trong năm 2008, sau khi Bộ trưởng Không quân Mỹ Michael Wynne và tướng T. Michael Moseley từ chức.
Tuy nhiên trong năm 2008, Quốc hội Mỹ đã thông qua một dự luật chi tiêu quốc phòng tài trợ sản xuất tiếp F-22 và Lầu Năm Góc chi ra 50 triệu USD trong 140 triệu USD cho 4 máy bay bổ sung, nâng tổng số đơn đặt hàng lên đến 187 chiếc và để lại chương trình trong tay chính phủ tiếp theo.
Vào tháng 11/2008, Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates tuyên bố rằng Raptor không thích hợp cho các cuộc xung đột sau chiến tranh Lạnh như ở Iraq và Afghanistan. Do vậy vào tháng 4/2009, dưới chính quyền mới, ông Obama đã kêu gọi kết thúc việc sản xuất F-22 trong năm tài chính 2011.
Vào tháng 7, tướng James Cartwright, Phó Tổng tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ nói với Ủy ban Thượng viện về các Dịch vụ Vũ trang (Armed Services) lý do chấm dứt sản xuất F-22.
Một trong các lý do bao gồm chuyển nguồn lực cho việc phát triển F-35, để cho phép các máy bay tiêm kích thế hệ thứ 5 có trong trang bị của 3 lực lượng (Không quân, Hải quân và Thủy quân Lục chiến) và duy trì sản xuất dòng F/A-18E/F để trang bị phiên bản tác chiến điện tử EA-18G Growler cho quân đội.
Các vấn đề với độ tin cậy và tính sẵn sàng của F-22 cũng nêu lên quan ngại. Tổng thống Obama đe dọa phủ quyết và tiếp tục sản xuất F-22, nhưng Thượng viện đã bỏ phiếu trong tháng 7/2009, ủng hộ kết thúc sản xuất sau khi bàn giao đầy đủ 187 máy bay cho Không quân Mỹ.
Việc phát triển máy bay tiêm kích thế hệ thứ 5 của Nga và Trung Quốc đã làm gia tăng mối quan tâm. Do vậy trong năm 2009, tướng John Corley, người đứng đầu Bộ chỉ huy chiến đấu trên không (Air Combat Command) nói rằng 187 chiếc F-22 là không đủ, nhưng Bộ trưởng Gates bác bỏ mối quan tâm này.
Năm 2011, ông Gates giải thích rằng Trung Quốc phát triển máy bay tiêm kích thế hệ thứ 5 khi số lượng F-22 đã được thiết lập, và cho rằng Mỹ sẽ có một lợi thế đáng kể trong số lượng các máy bay tiêm kích thế hệ thứ 5 trong năm 2025, thậm chí với sự chậm trễ của F-35.
Trong tháng 12/2011, chiếc F-22 thứ 195 và là chiếc cuối cùng được hoàn thành trong số 8 chiếc thử nghiệm và 187 chiếc hoạt động, chiếc máy bay đã được chuyển giao cho Không quân Hoa Kỳ vào ngày 2/5/2012.
(Còn tiếp)