Tỷ lệ mắc ung thư đại trực tràng không chỉ đang gia tăng ở Mỹ mà còn ở trên toàn thế giới và đang có xu hướng trẻ hóa. Dữ liệu được đăng tải trên tạp chí JAMA Surgery cho thấy từ năm 2010 đến năm 2030, ung thư đại tràng sẽ tăng 90% ở những người từ 20 đến 23 tuổi. Ung thư trực tràng sẽ tăng đột biến lên tới 124% trong cùng thời gian đó ở cùng nhóm tuổi từ 20-23.
Ung thư đại trực tràng là loại ung thư phổ biến thứ ba ở Mỹ. Chúng cũng là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ ba ở cả nam và nữ giới ở quốc gia này. Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS) ước tính sẽ có khoảng 153.000 ca ung thư đại trực tràng được phát hiện trong năm 2023 tại Mỹ, trong đó có 19.500 ca ở độ tuổi dưới 50.
Tại Việt Nam, ung thư đại trực tràng thường gặp ở những người trên 50 tuổi, tuy nhiên tỉ lệ mắc ung thư đại trực tràng trong nhiều năm gần đây tăng nhanh ở giới trẻ, thậm chí có cả những bệnh nhân mới 20 tuổi. Ung thư đại trực tràng là ung thư phổ biến hàng thứ 5 tại Việt Nam sau ung thư gan, phổi, dạ dày, vú. Theo Globocan 2020, Việt Nam ghi nhận gần 16.000 ca mắc mới và hơn 8.200 ca tử vong vì căn bệnh này.
Ảnh minh họa.
Một trong những nguyên nhân khiến ung thư đại trực tràng có xu hướng gia tăng và trẻ hóa là chế độ ăn uống kém lành mạnh.
Kiểu ăn làm tăng nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng
Khi tìm hiểu về nguyên nhân dẫn tới ung thư đại trực tràng, các nhà nghiên cứu tại Viện Salk và Đại học California, Mỹ nhận thấy chế độ ăn nhiều chất béo kém lành mạnh có thể là tác nhân chính làm tăng nguy cơ mắc ung thư. Họ phát hiện ra rằng chế độ ăn nhiều chất béo làm thay đổi vi khuẩn đường ruột và thay đổi axit mật ở các thí nghiệm trên chuột.
Sự thay đổi này gây ra tình trạng viêm, làm tăng nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng. Mặc dù nghiên cứu mới chỉ được tiến hành trên chuột nhưng có thể cung cấp một số manh mối nhằm lý giải nguyên nhân khiến số ca mắc ung thư đại trực tràng tăng lên và có xu hướng trẻ hóa.
Tác giả nghiên cứu, giám đốc Phòng thí nghiệm biểu hiện gen của Viện Salk, tiến sĩ Ronald Evans giải thích: “Sự cân bằng của các loại vi khuẩn trong ruột được hình thành bởi chế độ ăn uống và chúng tôi đang cố gắng tìm hiểu sự thay đổi trong hệ vi sinh vật đường ruột có thể dẫn đến ung thư bằng cách nào. Điều này sẽ mở đường cho các biện pháp can thiệp làm giảm nguy cơ ung thư”.
Các nhà nghiên cứu đã cho cho những chú chuột ăn các loại thực phẩm giàu chất béo kém lành mạnh và nhận thấy rằng những con chuột ăn chế độ ăn nhiều chất béo có nồng độ axit mật cao hơn.
Axit mật là các phân tử do gan tạo ra giúp ruột tiêu hóa thức ăn và hấp thụ cholesterol, chất béo và chất dinh dưỡng. Các nhà nghiên cứu cho rằng sự thay đổi của axit mật là nguyên nhân khiến một loại protein quan trọng trong ruột gọi là thụ thể Farnesoid X (FXR) suy giảm, làm tăng tỷ lệ mắc ung thư đại trực tràng.
Tiến sĩ Evans và nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng axit mật biến đổi đã ảnh hưởng đến việc sản xuất tế bào gốc trong ruột. Khi những tế bào gốc này không được bổ sung đủ thường xuyên, chúng có thể gây ra những đột biến, làm tăng nguy cơ phát triển các tế bào ung thư.
Các nhà nghiên cứu cho biết chế độ ăn nhiều chất béo kém lành mạnh góp phần làm thay đổi thành phần của hệ vi sinh vật trong ruột. Điều này khiến vi khuẩn phát triển, thúc đẩy sản xuất axit mật và tạo ra một vòng luẩn quẩn gây viêm nhiễm.
Ảnh minh họa.
Tiến sĩ Evans nói: "Chúng tôi đã giải mã được lý do tại sao chế độ ăn nhiều chất béo kém lành mạnh không tốt cho sức khỏe và nhận thất một số chủng vi khuẩn có thể bùng phát với chế độ ăn nhiều chất béo. Khi biết được cặn kẽ gốc rễ của vấn đề, chúng tôi sẽ đưa ra các biện pháp hiệu quả hơn để ngăn chặn, phòng ngừa ung thư đại trực tràng”.
Các chuyên gia cho biết chế độ ăn thiếu rau và trái cây kèm theo ăn nhiều thịt, uống rượu bia thường xuyên là nguyên nhân chính làm tăng nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng. Tuy nhiên, chế độ ăn này lại khá phổ biến và dễ bắt gặp ở những người trẻ tuổi. Đây cũng là một trong những nguyên do khiến ung thư đại trực tràng đang có xu hướng trẻ hóa.
Chính vì vậy, các chuyên gia khuyến nghị mọi người nên thay đổi chế độ ăn uống lành mạnh vì đây là một yếu tố quan trọng và cần thiết góp phần phòng ngừa ung thư đại trực tràng.