Trẻ hoá bệnh do ăn uống
Bệnh tật do ăn uống đang trở thành mối lo ngại của người Việt Nam và các quốc gia đang phát triển. Kinh tế chuyển dịch (nông nghiệp sang công nghiệp hoá), ăn uống thay đổi khiến cho các bệnh mãn tính không lây gia tăng và ngày một trẻ hoá.
TS.BS Nguyễn Quang Bảy, Trưởng khoa Nội tiết – Đái tháo đường, Bệnh viện Bạch Mai cho hay, gần đây tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì gia tăng và mối nguy đáng lo ngại nhất chính là căn bệnh đái tháo đường
Bác sĩ Bảy đã từng gặp bệnh nhi 14 - 15 tuổi đã mắc đái tháo đường là những đứa trẻ béo phì, gáy và nách thường có gai đen (có đám da sần và chuyển màu).
Có bệnh nhân 16 tuổi cao 1m83, nặng 88 kg, vào viện vì đường máu quá cao. Sau khi điều trị, cân nặng của bệnh nhân vẫn tăng do chế độ ăn không đảm bảo, đi học thường xuyên ăn thêm.
Nhiều bệnh nhân bị biến chứng bàn chân do đái tháo đường, ảnh BVCC.
Theo bác sĩ Bảy, đái tháo đường ở người trẻ biến chứng sẽ tiến triển nặng hơn, thời gian dẫn đến biến chứng sớm hơn và tỷ lệ có biến chứng nhiều hơn so với người lớn tuổi mắc bệnh.
Bác sĩ Bảy khuyến cáo, theo điều tra dịch tễ của Việt Nam, tỷ lệ mắc tiền đái tháo đường thường cao hơn gấp đôi so với đái tháo đường (5,4% so với 13,7% theo điều tra năm 2012).
Tiền đái tháo đường nếu để diễn biến tự nhiên thì sau 10 năm: 50% sẽ chuyển thành đái tháo đường, 25% vẫn là tiền đái tháo đường và 25% có thể trở về bình thường.
Tiền đái tháo đường là dạng rối loạn đường huyết nhưng chưa đến mức là đái tháo đường. Có 2 dạng tiền đái tháo đường là tăng đường huyết lúc đói (đường huyết lúc đói dưới 7,0 nhưng trên 5,6 mmol/L) và rối loạn dung nạp glucose (đường huyết đo 2h sau khi uống 75g glucose từ 7,8 đến 11,0 mmol/L)
"Nhiều nghiên cứu chứng minh người tiền đái tháo đường đã có tăng cao nguy cơ bị các biến chứng tim mạch và thần kinh. Hiện nay, trên thế giới có hơn 50 quốc gia đã coi tiền đái tháo đường là một bệnh và có chỉ định điều trị để ngăn ngừa tiến triển thành đái tháo đường và biến chứng tim mạch", bác sĩ Bảy nói.
Để can thiệp vào nhóm tiền đái tháo đường thay đổi lối sống là phương pháp can thiệp cơ bản, gồm điều chỉnh chế độ ăn và tăng cường tập luyện thể lực để làm giảm cân. Phương pháp này có hiệu quả rất tốt trong thời gian đầu nhưng lại không bền vững.
Ngoài ra, bệnh nhân tiền đái tháo đường có thể được can thiệp bằng thuốc hoặc phương pháp phẫu thuật thắt dạ dày hoặc nối thông dạ dày – ruột được áp dụng đối với nhóm béo phì, có chỉ số khối cơ thể (BMI) trên 34.
Đối với trẻ nhỏ để phòng tránh đái tháo đường, bố mẹ cần kiểm soát chế độ ăn và cân nặng cho trẻ. 90% bệnh nhân đái tháo đường type 2 là có thể phòng ngừa được bằng thay đổi lối sống, tăng cường vận động, kiểm soát cân nặng và chế độ ăn.
Cảnh giác với đái tháo đường thai kỳ
Bác sĩ Bảy cho hay, theo một số điều tra tại các bệnh viện lớn, khoảng 6 – 9% những phụ nữ mang thai ở Việt Nam bị đái tháo đường thai kỳ.
Thông thường 90% trường hợp đái tháo đường thai kỳ sẽ hết sau khi sinh nhưng về lâu dài những người đó sẽ có nguy cơ đái tháo đường type 2 cao hơn người bình thường. Đái tháo đường thai kỳ thường xuất hiện từ tuần 24-28 của thai kỳ.
Những phụ nữ có nguy cơ cao như đã bị đái tháo đường thai kỳ: Tiền sử đẻ con to (> 4000g); Gia đình có người bị đái tháo đường, thừa cân béo phì, tuổi trên 35…
Nguy cơ của đái tháo đường thai kỳ
- Với những tuần đầu có thể gây sảy thai, thai chết lưu, có nhiều trường hợp hỏng thai liên tiếp nhiều lần sau đó mới được phát hiện bệnh.
- Thai phát triển tới 37 – 38 tuần bị chết lưu
- Dị tật cho thai đặc biệt là dị tật về tim mạch, thần kinh, thai to…
- Mẹ bị hôn mê do chỉ số đường huyết quá cao; đa ối hoặc nguy cơ đái tháo đường về sau