"Mỗi nước có một phong tục riêng. Phong tục ấy kỳ thủy hoặc bởi tự một vài người mà rồi bắt chước nhau thành ra thói quen. Hoặc bởi phong thổ và cách chính trị, cách giáo dục trong nước mà thành ra. Hoặc bởi cái phong trào ở ngoài tràn vào rồi mà dần dần tiêm nhiễm thành tục.
Nhưng đại để tục gì cũng vậy, phải trải lâu tháng lâu năm mới thành được, mà trong những tục ấy cũng có tục hay, cũng có tục dở. Duy chỉ bởi tai mắt người đã quen, lòng người đã tín dùng, thì dẫu có người biết là dở mà cũng không sao đổi ngay đi được".
Phan Kế Bính (1875-1921)
GIÁ THÚ
Tuổi đính hôn
- Con giai con gái độ mười lăm, mười sáu tuổi giở lên, đã là tuần sắp sửa lấy vợ lấy chồng. Hai ba mươi tuổi mới cưới gọi là muộn. Cũng có nhà cưới cho con từ năm mười hai, mười ba tuổi, có nhà ước hôn với nhau từ trong thai.
Tục vợ chồng cứ hơn kém nhau một hai tuổi là vừa đôi.
Dạm hỏi
- Trước hết kén chọn chỗ nào môn đăng hộ đối, xem đôi tuổi không xung khắc nhau, mới mượn mối lái. Mối lái nói với cha mẹ người con gái bằng lòng gả rồi, nhà giai mới đem cau đem chè đến dạm.
Hình minh họa
Từ đó thì mồng năm ngày Tết hoặc là ngày kỵ nhật nhà gái, người rể phải đưa đồ lễ vật đến mới là trọng thể. Cách ít lâu thì làm lễ ăn hỏi: nhà giai đem cau chè, lợn xôi đến nhà gái lễ gia tiên, có nhà dùng cách giản tiện thì chỉ dùng cau, chè, mứt mà thôi. Ở Quảng Nam thì trong lễ ăn hỏi thường lại thêm một đôi hoa tai vàng nữa.
Sêu
- Ăn hỏi rồi mới sêu. Sêu thì mùa nào thức ấy, như mùa vải thì sêu vải, mùa dưa thì sêu dưa, v.v.
Có nơi một năm chỉ sêu bốn mùa. Tháng Ba sêu vải; tháng Năm sêu dưa hấu, đường, mắm, chim, ngỗng; tháng Chín sêu hồng, cốm, gạo mới, chim ngói; tháng Chạp thì sêu cam, mứt, bánh cốm. Đồ sêu nhà gái lấy một nửa, còn một nửa giả lại nhà giai gọi là đồ lại mặt.
Cưới
- Sêu xong một năm hoặc nửa năm thì cưới, cũng có khi phải sêu hai ba năm mới được cưới. Nếu không sêu mà xin cưới thì là thiếu lễ, người ta chê cười, mà nhà gái không mấy người nghe.
Trao thơ, thách cưới
- Trước khi muốn cưới thì đôi bên nhà giai và nhà gái đều quang quẻ cả mới được, nghĩa là người chủ hôn không có tang chế gì. Cưới thì nhà giai viết thư hỏi xem nhà gái ăn những lễ vật thế nào.
Nhà gái muốn những thức gì thì viết thư giả lời nhà giai. Nhà giai liệu thể lo được thì mới chọn ngày lành tháng tốt, đính ước ngày cưới với nhà gái. Nếu nhà gái lấy lễ nặng quá thì nhà giai xin bớt đi ít nhiều. Nhà gái không nghe thì có khi lại hoãn việc lại. Mà nhà giai bất đắc dĩ phải lo thì có khi vì thế mà hai bên sui gia sinh ra oán ghét nhau.
Hình minh họa
Đồ thách cưới thì đại để: bao nhiêu lợn gạo, hoặc ăn bò thì thách bò, bao nhiêu chè, bao nhiêu cau, bao nhiêu rượu, vòng, nhẫn, hoa, hột, quần áo, chăn màn, và kèm theo thêm bao nhiêu bạc, v.v.
Tùy hơi thành thị, quê mùa, nhà giàu nhà nghèo, ăn nhiều ăn ít, nhưng đại khái cũng trong những khoản ấy.
Đám cưới
- Về vùng nhà quê, ở cùng hương thôn với nhau, cưới thường đi về đêm. Lúc đi, phải chọn giờ hoàng đạo mới đi, và phải có một người đàn ông dễ tính ra đón ngõ trước, khi ra thì reo ầm cả lên rằng gặp giai, để cho mọi việc được dễ dàng mau mắn.
Hình minh họa
Trong đám cưới có một ông già (kén ông nào hiền lành, mà vợ chồng còn song toàn, lắm con nhiều cháu mới tốt) cầm một bó hương đi trước, rồi đến các người dẫn lễ, kẻ đội mâm cau, người khiêng lợn rượu, v.v. Chú rể thì khăn áo lịch sự, có một đám thân thích dẫn đi. Khi đến nhà vợ, dàn bày đồ lễ, người chủ hôn nhà gái khấn lễ gia tiên rồi thì người rể vào lễ.
Tế tơ hồng
- Bày hương án ra sân, dùng lễ gà, xôi, giầu, rượu, tế tơ hồng, rồi hai vợ chồng đều vào lễ.
Điển tế tơ hồng do chuyện ngày xưa, bên Tàu có một người tên là Vi Cố, một bữa đi chơi giăng, gặp một ông già đang xe các sợi dây đỏ ở dưới bóng giăng. Hỏi thì ông ấy nói rằng ta là Nguyệt Lão coi việc xe duyên cho vợ chồng nhân gian, ta đã buộc sợi dây này vào chân người nào thì dù thế nào cũng phải lấy nhau.
Hình minh họa
Vì thế ta cho việc vợ chồng là có ông Nguyệt Lão định trước, cho nên thành vợ thành chồng rồi thì phải tạ ơn ông ấy, và cầu ông ấy phù hộ cho ở được trăm năm với nhau.
Tế tơ hồng rồi thì người rể vào lạy cha mẹ vợ (tục ấy người theo lối văn minh bây giờ không chịu). Rồi đợi cho họ hàng ăn uống xong mới về.
Đưa dâu
- Sáng hôm sau thì đưa dâu, nhà giai nhà gái cùng ăn mừng, làm cỗ bàn, mời bà con khách khứa. Bà con khách khứa mừng nhau thì kẻ mừng tiền, người mừng chè, cau, hoặc là câu đối đỏ, v.v. Mà thường chỉ mừng bên nhà giai, chớ không mấy nơi mừng bên nhà gái, duy ở thành phố thì có mừng bên nhà gái, nhưng chỉ mừng cho người con gái hoặc một vài vuông nhiễu điều, hoặc may sẵn thành yếm mà thôi.
Đưa dâu, nhà gái cũng kén một ông già cầm bó hương đi trước, rồi bà con họ hàng dẫn cô dâu đi sau. Đến nhà giai rồi thì một vài bà già dẫn cô dâu vào lạy gia tiên, rồi đưa đi lễ nhà thờ đôi bên bố chồng mẹ chồng. Đoạn giở về mới lạy cha mẹ chồng, hoặc còn ông bà chồng cũng lạy. Ông bà cha mẹ chồng, mỗi người mừng cho một vài đồng bạc hoặc một vài chục.
Hình minh họa
Họ hàng ăn uống xong thì lấy phần. Phần phải có xôi thịt, bánh trái, giò chả, cau chuối mới là cỗ cưới.
Ở thành phố thì thách cưới thường nặng hơn ở nhà quê, mà không có lệ đi ăn cưới đêm. Cưới ban ngày xong thì đón dâu về ngay.
Trong khi cưới và khi đón dâu, hai ông già cầm hai cái lư hương ngồi xe che lọng xanh đi trước, rồi các kẻ dẫn lễ, nào người đội mâm cau trùm vải tây đỏ, nào kẻ khiêng chóe rượu, khiêng quả phù trang. Trước còn đi bộ, ít nay đám thì đi toàn xe cao su, đám nào khoe sĩ diện thì đi toàn xe song mã.
Lễ bái cũng như cách nhà quê. Ăn xong cũng có phần, phần có những bánh đường bánh ngọt, lại thêm một cái khăn mặt đỏ để gói phần. Sau lại có bánh giầy bánh chưng chia biếu những người quen thuộc nữa.
Phương thuật
- Trong khi cô dâu đi đường, ăn mặc tốt đẹp e thiên hạ quở quang, phải cài vài cái kim vào choàng áo, để có ai độc mồm độc miệng, thì đã có kim ấy trấn áp đi. Có nơi lại đặt hỏa lò giữa cửa cho cô dâu bước qua, cũng là ý ấy. Cũng có nơi dâu mới đến cửa, mẹ chồng cầm bình vôi tránh đi một lúc, có nơi dâu mới đến cửa, một người lấy chày cối giã một lúc, tục ấy thì ngộ quá, không hiểu ý làm sao.
Đóng cửa, giăng dây
- Trong khi cưới và lúc đưa dâu, lại có tục đóng cửa, giăng dây. Lúc nhà giai đem lễ cưới đến nhà gái thì bên nhà gái, hoặc trẻ con, hoặc đứa đầy tớ, đóng cửa không cho vào. Nhà giai phải cho chúng nó dăm ba hào, một đồng bạc, thì chúng nó mới mở cửa.
Trong lúc đi đường thì những kẻ hèn hạ hoặc lấy sợi chỉ đỏ, hoặc mảnh vải, lụa đỏ giăng ngang giữa đường, đám cưới đi đến, phải nói tử tế mà cho chúng nó vài hào, thì chúng nó mới cởi dây cho đi.
Hình minh họa
Chỗ thì chúng nó bày hương án, chờ đi đến, đốt một bánh pháo ăn mừng, chỗ ấy phải đãi chúng một vài đồng mới xuôi. Nếu bủn xỉn mà không cho chúng nó tiền, thì chúng cắt chỉ cắt dây nói bậy nói bạ, chẳng xứng đáng cho việc vui mừng, vì vậy đám nào cũng phải cho.
Tục giăng dây này có đã lâu. Về đời Huyền Tôn, ngươi Đường Thiệu đã dâng biểu nói rằng: ngày người ta đón dâu, những kẻ hèn hạ thường hay lấy xe ngăn trở đường đi, đòi cỗ bàn ăn uống.
Tục ấy mỗi ngày một thịnh, đến nỗi các đám cưới của nhà vương công, chúng nó cũng tụ họp đàn lũ, che lấp đường đi, làm cho lôi thôi thì giờ, để đòi tiền của, thành ra tiền giăng dây nặng hơn tiền cưới, xin cấm hết đi mới được, xem vậy thì tức là tục giăng dây của ta bây giờ.
Giao duyên
- Tối hôm cưới, người chồng lấy giầu trăm (giầu tế tơ hồng), trao một nửa cho vợ, rót một chén rượu, mỗi người uống một nửa, gọi là lễ hợp cẩn. Vợ giải chiếu lạy chồng hai lạy, chồng đáp lại vái một vái. Tục ấy nhà đại gia mới dùng đến, nhà thường thì không mấy người dùng.
Lại mặt
- Cưới được ba hôm, đến hôm thứ tư thì hai vợ chồng làm lễ chè xôi đem về nhà vợ lạy gia tiên, gọi là lễ lại mặt, chữ gọi là tứ hỉ.
* Bài viết được biên tập theo sách Việt Nam phong tục của tác giả Phan Kế Bính, Nhã Nam với mục đích chia sẻ thêm nhiều kiến thức về các phong tục cổ xưa của dân gian Việt Nam.