Theo đó, mới đây, hai nước đã nhất trí nâng cấp quan hệ lên "đối tác chiến lược toàn diện", mức độ quan hệ cao nhất mà Việt Nam mới chỉ thiết lập với Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc, Ấn Độ và gần đây nhất là Mỹ trong chuyến viếng thăm của Tổng thống Biden hồi tháng 9.
Báo cáo cho biết, một điểm ấn tượng là thương mại song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản đã tăng trưởng hơn 90 lần trong vòng ba thập kỷ qua nhờ những nỗ lực tích cực trong tự do hóa thương mại, giúp Nhật Bản trở thành đối tác thương mại lớn thứ tư của Việt Nam.
Mặc dù thị phần xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản giảm dần do tỷ trọng của Mỹ và Trung Quốc tăng lên, tổng thương mại giữa Nhật Bản và Việt Nam đã gia tăng với tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) đạt mức 15,2% kể từ năm 1990.
Theo HSBC, kết quả ấn tượng này có được là nhờ Việt Nam gia nhập WTO từ năm 2007, sau đó là tới Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện giữa Nhật Bản với ASEAN (ASEAN-Japan Comprehensive Economic Partnership – AJCEP) có hiệu lực từ năm 2008 và Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (Vietnam-Japan Economic Partnership Agreement – VJEPA) có hiệu lực từ năm 2009. Tổng thương mại vượt ngưỡng 47 tỷ USD trong năm 2022 khiến Nhật Bản trở thành đối tác thương mại lớn thứ tư của Việt Nam, phản ánh mối quan hệ kinh tế năng động giữa hai nước.
Ngay cả trong nội khối ASEAN, Việt Nam cũng thâm nhập sâu vào các hoạt động thương mại của Nhật Bản. Mặc dù thị phần của ASEAN trong thương mại của Nhật Bản duy trì ổn định ở mức dưới 15%, Việt Nam đã không ngừng gia tăng tầm quan trọng bên trong khối ASEAN.
Nhìn kỹ vào cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản, một số nhóm mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn hẳn bao gồm điện tử tiêu dùng/máy móc/vận tải (35%), dệt may/giày dép (26%) và nguyên liệu thô (18%) như gỗ và nhựa. Trên thực tế, Việt Nam nổi lên như một quốc gia có kim ngạch xuất khẩu điện thoại thông minh lớn sang Nhật Bản bắt đầu vào năm 2016 và 2017, phản ánh sự chuyển dịch hoạt động sản xuất điện thoại thông minh ra nước ngoài của các tập đoàn công nghệ lớn của Hàn Quốc.
Thị phần của Việt Nam trong xuất khẩu của Nhật Bản sang ASEAN-6 đã gia tăng. Nguồn: HSBC
Xuất khẩu điện thoại của Việt Nam sang Nhật đã tăng đáng kể trong giai đoạn này, vượt lên cả tỷ trọng của Hàn Quốc. Năng lượng, một thời chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu của Việt Nam (17% trong năm 2013) đã giảm, phù hợp với xu hướng chuyển dịch của Việt Nam sang nhập khẩu ròng về năng lượng.
Mặc dù vậy, theo HSBC, điều quan trọng không kém là cần nhìn vào giá trị xuất khẩu qua các con số tuyệt đối. Rõ ràng, một số lĩnh vực xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào nhu cầu của Nhật Bản hơn so với các lĩnh vực khác. Chẳng hạn, Nhật Bản từng là điểm đến chính của phụ tùng ô tô và hóa chất xuất khẩu từ Việt Nam. Mặc dù giảm dần qua thời gian, đây vẫn là nhóm mặt hàng có thị phần lớn vào khoảng 20%. Tương tự đối với dây điện và cáp điện, Nhật Bản là điểm đến xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam đối với nhóm hàng này.
Cơ hội cũng không chỉ nảy nở trong việc gia tăng xuất khẩu các sản phẩm chủ lực hiện đang luân chuyển thương mại. Chẳng hạn, nhu cầu đối với một số loại trái cây như các loại hạt cũng đã gia tăng. Báo cáo cho rằng, Việt Nam cần đảm bảo các sản phẩm xuất khẩu nông sản đạt tiêu chuẩn quốc tế và mở rộng mặt hàng xuất khẩu để từ đó tăng cường các quan hệ kinh tế.
Sự gia nhập của bán lẻ và tài chính
Bên cạnh thương mại, Nhật Bản được biết tới là nhà đầu tư trực tiếp chính ở ASEAN. Riêng đối với Việt Nam, Nhật Bản là nguồn FDI lớn thứ ba, đạt gần 70 tỷ USD trong năm 2022, chỉ sau Hàn Quốc và Singapore. Để bổ sung cho chuỗi cung ứng hiện tại, Nhật Bản đã dầu tư chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất với các công ty đa quốc gia như Panasonic và Canon thành lập cơ sở sản xuất từ rất sớm.
Nhật Bản trở thành nhà đầu tư lớn thứ ba tại Việt Nam vào năm 2022. Nguồn: HSBC
Ban đầu, các công ty Nhật Bản bị thu hút bởi giá lao động cạnh tranh, sau đó, họ tiếp tục đầu tư và mở rộng hoạt động trong khu vực như một trung tâm xuất khẩu bên ngoài Nhật Bản. Xu hướng này vẫn còn tiếp diễn với nhiều cơ hội mới xuất hiện đặc biệt trong các mảng giá trị công thêm cao hơn như bán dẫn. FDI sản xuất giá trị cộng thêm cao hơn đến từ các công ty bán dẫn nước ngoài lớn sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực để tạo cơ hội cho các công ty Nhật Bản xử lý các quy trình sản xuất phức tạp hơn ở nước ngoài.
Không chỉ vậy, thu nhập tăng lên và sự nở rộ của chi tiêu tùy ý ở Việt Nam đã tạo ra nhiều cơ hội trong bán lẻ cũng như dịch vụ tài chính, từ đó thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp Nhật Bản. Tập đoàn bán lẻ Nhật Bản Aeon nổi lên như một ví dụ tiêu biểu, tập đoàn này đã công bố ý định nâng số lượng trung tâm thương mại từ mức sáu trung tâm trong hiện tại lên 30 vào năm 2030. Mizuho, một trong những ngân hàng lớn của Nhật Bản, đã từng bước mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam như công ty dịch vụ thanh toán số hàng đầu M-Service cũng như ngân hàng thương mại cổ phần Vietcombank. Mặc dù sự cạnh tranh trong lĩnh vực này ngày càng khốc liệt, bằng chứng là các đối thủ toàn cầu khác như Tập đoàn Central Group của Thái Lan cũng ngày càng thâm nhập sâu hơn, rõ ràng là tiềm năng tiêu dùng ngày càng gia tăng ở Việt Nam là một cơ hội để một nhóm doanh nghiệp Nhật Bản mới tìm kiếm đầu tư.
Ngoài ra, Nhật Bản cũng là quốc gia cung cấp vốn hỗ trợ phát triển nước ngoài (vốn ODA) lớn nhất của Việt Nam. Với hơn 3 ngàn tỷ yên vốn ODA, Việt Nam trở thành một trong năm quốc gia nhận nhiều vốn ODA nhất từ Nhật Bản. Thực tế, hầu hết các khoản vay này đều được dùng vào mục đích phát triển hạ tầng thiết yếu như sân bay quốc tế Nội Bài và cầu Nhật Tân. Với thời hạn ưu đãi, thời điểm đáo hạn dài (thường rơi vào khoảng 30-40 năm) và lãi suất thấp (thường là 0,5-1,0%), những khoản vay phát triển này đóng vai trò lớn trong tạo điều kiện cho tăng trưởng gần đây của Việt Nam.
Một lĩnh vực quan trọng khác cũng đáng nhấn mạnh ở đây là dòng kiều hối từ Nhật Bản về Việt Nam đóng vai trò như một nguồn thu nhập ngoại tệ ổn định quan trọng. Theo số liệu của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO,2023), Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc là ba điểm đến cho xuất khẩu lao động của Việt Nam. Một yếu tố thúc đẩy dòng kiều hối là chương trình đào tạo thực tập sinh ngành công nghệ của Nhật Bản cho phép lao động nước ngoài ở lại tối đa 5 năm để phát triển kỹ năng cần thiết làm hành trang về nước. Nguồn thực tập sinh lớn nhất cho chương trình này đến từ Việt Nam, chiếm hơn nửa tổng thực tập sinh công nghệ.
Nhìn chung, theo HSBC, quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và Việt Nam có tầm quan trọng lớn xét trên nhiều phương diện. Mặc dù các doanh nghiệp Nhật Bản ban đầu tiếp cận Việt Nam như một cơ sở sản xuất ở nước ngoài có chi phí cạnh tranh, câu chuyện tăng trưởng mạnh mẽ của Việt Nam đã mở ra nhiều cơ hội cho quan hệ giữa hai nước phát triển.