Vào khoảng 5h45 chiều ngày 2/10, Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển công bố tại Stockholm rằng Giải Nobel Y sinh học năm 2023 sẽ được trao cho Katalin Karikó của công ty công nghệ sinh học BioNTech của Đức và Drew Weissman là giáo sư tại Đại học Pennsylvania ở Mỹ, vì những khám phá của họ về phát triển vắc xin mRNA hiệu quả chống lại COVID-19. Điều này nâng số người phụ nữ đoạt giải Nobel về Y sinh lý học lên 13 người.
Ngày hôm sau, 3 tháng 10, người phụ nữ thứ năm đoạt giải Nobel về vật lý đã xuất hiện. Anne L'Hullier, nhà vật lý nữ đến từ Đại học Lund ở Thụy Điển, cùng Pierre Agostini và Ferenc Krausz từ Đại học Bang Ohio ở Hoa Kỳ, đã cùng nhận Giải Nobel Vật lý năm 2023 để ghi nhận công trình tiên phong và sáng tạo của họ trong khoa học về tia laser cực nhanh và vật lý atto giây.
Ảnh minh họa. Ảnh: CNN
Nếu thống kê theo đối tượng thì sự mất cân bằng giới tính cũng khá nổi bật. So với các giải thưởng về Y sinh học do Viện Karolinska đánh giá, các giải thưởng vật lý và hóa học do Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đánh giá thậm chí còn là “lãnh địa của các nhà khoa học nam”. Trong số 224 người chiến thắng trước đó, chỉ có 5 người chiến thắng là nữ.
Ngay cả trong lĩnh vực Y sinh học, những lĩnh vực có số lượng nữ đoạt giải Nobel đông nhất, tỷ lệ nam và nữ đoạt giải Nobel vẫn chỉ là 16,5:1. Tại sao phụ nữ đoạt giải Nobel về khoa học lại hiếm đến vậy?
Ảnh minh họa. Ảnh: ZME
Sự mất cân bằng về tỷ lệ nam và nữ tham gia sự nghiệp khoa học
Ngay từ năm 1975, Zuckerman và J. Cole, trong bài báo “Phụ nữ trong khoa học Mỹ”, đã lấy các nhà khoa học nữ trong giới vật lý và sinh học Mỹ làm đối tượng nghiên cứu và chỉ ra rằng khoảng cách giữa số lượng nam và nữ ở hai nhóm này sẽ tăng lên đáng kể khi thăng tiến về cấp độ (sinh viên đại học - nghiên cứu sinh - nhà nghiên cứu khoa học).
Họ đưa ra lời giải thích cho hiện tượng này là: thứ nhất, đó là kết quả của hành động chung của sự lựa chọn xã hội và sự tự lựa chọn; thứ hai, sự tồn tại của những khác biệt hạn chế, tức là trong một cộng đồng có nguồn lực hạn chế và sự cạnh tranh cao để giành phần thưởng. Theo đó là hàng loạt yếu tố đặc biệt bên ngoài tác động đến nhà khoa học, so với nhà khoa học nam, nhà khoa học nữ sẽ chịu tác động lớn hơn, ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và chất lượng kết quả nghiên cứu khoa học.
Thậm chí nhiều thập kỷ sau, nghiên cứu của Zuckerman vẫn còn phù hợp. Năm 1994, tạp chí Khoa học đưa ra một bộ số liệu: Tại Hoa Kỳ từ năm 1992 đến năm 1993, tỷ lệ phụ nữ trong số các trợ lý giáo sư, phó giáo sư và giáo sư lần lượt là 42,3%, 28,9% và 14,4%. Ngoài ra, một báo cáo gần đây do Tập đoàn tư vấn Boston do Quỹ Doanh nghiệp L'Oréal ủy quyền cũng cho thấy, trong quá trình chuyển lên cấp cao hơn, số lượng nữ giảm nhanh hơn nam, đồng nghĩa với việc phụ nữ dễ bỏ cuộc hơn và việc đạt được công việc cấp cao càng khó khăn hơn.
Ở Hoa Kỳ, 29% phụ nữ tham gia nghiên cứu khoa học, 11% phụ nữ giữ các vị trí nghiên cứu khoa học cấp cao và chỉ 3% phụ nữ đoạt giải Nobel Khoa học. Tương ứng, 71% nam giới tham gia nghiên cứu khoa học, mặc dù 89% nam giới giữ chức vụ nghiên cứu khoa học cấp cao nhưng 97% nam giới đã đoạt giải Nobel. Phụ nữ rõ ràng gặp bất lợi trong việc thăng tiến lên các vị trí nghiên cứu khoa học cấp cao. Ảnh: Digital-science
Phụ nữ trong xã hội: Tác động của định kiến giới
Trên thực tế, xã hội nhìn chung cho rằng nam giới phải cạnh tranh hơn, phù hợp hơn với khoa học, v.v. Đây đều là những định kiến về giới, xuất phát từ sự khác biệt về sinh lý giữa hai giới và văn hóa xã hội.
Bắt đầu từ gia đình làm gốc, cả nam giới và phụ nữ sẽ bị ràng buộc bởi những định kiến về giới. Chúng ta biết rằng ảnh hưởng của gia đình đến sự phát triển cá nhân chủ yếu được phản ánh trong thời thơ ấu, tính cách cá nhân và sự lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai có liên quan chặt chẽ đến giáo dục gia đình thời thơ ấu. Qua phân tích hoàn cảnh gia đình của những nữ phụ nữ đoạt giải Nobel, chúng ta cũng thấy phần lớn họ đều xuất thân từ những gia đình có trình độ hiểu biết tương đối cao, điều kiện kinh tế khá, tư duy tương đối cởi mở, điều này chắc chắn sẽ có tác động tích cực đến cuộc sống của họ.
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát thì hầu hết các gia đình vẫn vô thức lựa chọn những phương pháp khác nhau khi nuôi dạy con cái. Nghiên cứu cho thấy, nhiều bậc cha mẹ mong muốn con trai mình sẽ năng động, hoạt bát và ham học hỏi, trong khi đối với con gái, họ mong muốn con sẽ hiền lành và ngoan ngoãn hơn. Điều này hạn chế quyền tự do khám phá thế giới của các bé gái ở một mức độ nhất định và không có lợi cho việc nuôi dưỡng trí tò mò về thế giới và khoa học.
Ảnh minh họa. Ảnh: Zhihu
Những đồ chơi mà trẻ thường tiếp xúc cũng đều có “giới tính”. Trong khi các bé trai thường có những đồ chơi đa dạng hơn và có công nghệ cao hơn, như máy bay đồ chơi, ô tô, đồ chơi xếp hình, v.v.; đồ chơi của bé gái đơn giản hơn, thường là búp bê và sách truyện. Trên quầy của các trung tâm mua sắm, đồ chơi của bé trai và bé gái thường được đặt riêng biệt và màu sắc mang lại cho người ta ý nghĩa tâm lý mạnh mẽ: đồ chơi của bé trai thường có màu sắc tươi sáng, trong khi đồ chơi bé gái chủ yếu có màu hồng. Từ đó cha mẹ sẽ vô thức nghĩ rằng màu xanh lam và xanh lá cây trông điềm tĩnh và phóng khoáng sẽ phù hợp với con trai hơn. Sự lựa chọn của cha mẹ thực tế sẽ ảnh hưởng đến sự lựa chọn của con cái, theo thời gian, các bé trai và bé gái cũng sẽ hình thành những định kiến về giới tính giống như cha mẹ mình.
Tác động của khuôn mẫu này vẫn tiếp tục. Sau khi vào trường học, sẽ có những khác biệt về tư tưởng trong cách nuôi dạy con trai và con gái, mặc dù dường như chúng học những môn giống nhau. Tuy nhiên, trong học tập và sinh hoạt, nam sinh thiên về lĩnh vực khoa học nhiều hơn để trau dồi sở thích và khả năng thực hành về vật lý, hóa học, v.v. Ngay cả trong sách giáo khoa, miêu tả của đàn ông và phụ nữ cũng có thành kiến: đàn ông trông giống tầng lớp tinh hoa xã hội hơn, trong khi phụ nữ lại trông giống những bà nội trợ trong gia đình hơn.
Ảnh minh họa. Ảnh: Zhihu
Tuy nhiên, với sự phát triển của xã hội, phụ nữ đã chứng minh rằng họ thực sự có thể đạt được kết quả học tập không hề thua kém nam giới. Quan điểm này đã được nhiều dữ liệu ở các nước phát triển ở Châu Âu và Hoa Kỳ ủng hộ. Nhiều cuộc khảo sát ở Mỹ đã chỉ ra rằng con gái nhìn chung học tập tốt hơn con trai ở trường, trong những năm gần đây, số lượng phụ nữ có bằng khoa học ngày càng tăng lên, dần đạt đến trình độ ngang bằng với nam giới. Khi xu hướng này ngày càng trở nên rõ ràng, những định kiến trong gia đình, nhà trường cũng dần thay đổi nhưng tác động của nó vẫn chưa thể loại bỏ hoàn toàn.
Ảnh minh họa. Ảnh: CNN
Tỷ lệ nam và nữ đoạt giải Nobel Khoa học rất khác nhau ở các nhóm tương ứng, điều này không thể giải thích chỉ bằng sự tồn tại của sự phân biệt giới tính trong cộng đồng khoa học mà thực tế còn có những nguyên nhân sâu xa hơn.
Từ góc độ xã hội, định kiến giới đã tạo ra những kỳ vọng về vai trò tương đối phổ biến đối với phụ nữ, kỳ vọng về vai trò này chưa phù hợp với sở thích của cộng đồng khoa học, từ đó hạn chế sự phát triển của phụ nữ trong cộng đồng khoa học. Việc sinh con cũng có tác động lớn đến phụ nữ nên họ thường phải hạ thấp kỳ vọng nghiên cứu khoa học, thậm chí phải gián đoạn sự nghiệp nghiên cứu khoa học, khiến nhiều phụ nữ dần rời xa giải thưởng Nobel.