Thông tin được các chuyên gia, nhà quản lý đưa ra tại Hội thảo giải pháp nâng cao sức khỏe đất trồng trọt phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), do Trung tâm Khuyến nông quốc gia tổ chức ngày 25/11, tại Cần Thơ.
Quang cảnh hội thảo.
Sức khỏe đất ngày càng yếu
TS. Nguyễn Quang Hải – Phó Viện trưởng Viện Thổ nhưỡng hóa nông cho biết, cả nước có hơn 33 triệu ha đất tự nhiên, trong đó có 28 triệu ha đất nông nghiệp, riêng đất trồng lúa 3,9 triệu ha. Phân theo loại đất, nước ta có 17,5 triệu ha đất đỏ vàng (chiếm 53%), 3,3 triệu ha đất phù sa (10%), đất mùn chiếm 10%, còn lại là đất phèn, mặn, xám bạc màu, cát và các loại đất khác.
Ở ĐBSCL, theo TS Hải, trong tổng số hơn 1,9 triệu ha đất trồng lúa được khảo sát, có hơn 890.000ha có độ phì nhiêu trung bình (chiếm 47%), hơn 600.000ha phì nhiêu ở mức khá (32%), hơn 360.000ha có độ phì nhiêu cao (hơn 19%), còn lại hơn 33.000ha độ phì nhiêu thấp.
Dự án điều tra, đánh giá tài nguyên đất quốc gia của Bộ Tài nguyên và Môi trường trước đây cho thấy, trong tổng diện tích điều tra đất nông nghiệp hơn 11,5 triệu ha, có hơn 5 triệu ha đất bị thoái hóa (chiếm 44%). Theo ông Hải, có nhiều nguyên nhân của tình trạng thoái hóa đất, ngoài tác động của biến đổi khí hậu, còn do thực trạng thâm canh, sử dụng giống năng suất cao, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật…
Nhiều nguyên nhân của tình trạng thoái hóa đất, trong đó có sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật.
PGS.TS Trần Văn Dũng (Khoa Khoa học đất, Trường Nông nghiệp, Đại học Cần Thơ) cho biết, trong những thập kỷ gần đây, vùng ĐBSCL đang đối mặt với nhiều thách thức lớn do quá trình thâm canh kéo dài. Cùng với biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, hiện tượng xâm nhập mặn sâu, hạn hán, sụt lún, biến đổi chế độ thủy văn. Những tác động này làm suy giảm độ phì nhiêu đất - yếu tố quyết định năng suất, chất lượng và sự ổn định của các hệ thống sản xuất nông nghiệp.
Tình trạng giảm hàm lượng hữu cơ, mất cân đối dinh dưỡng, chua hóa đất, thoái hóa cấu trúc và giảm hoạt động vi sinh vật đang xuất hiện ở nhiều vùng sinh thái khác nhau ở ĐBSCL. Bối cảnh đó, theo TS. Dũng, đòi hỏi việc hiểu rõ đặc tính của từng nhóm đất chủ yếu, nhận diện những vấn đề suy thoái đang diễn ra, và đề xuất các giải pháp quản lý độ phì nhiêu theo hướng bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu.
TS. Dũng cũng cho rằng, suy giảm độ phì nhiêu đất đang trở thành thách thức lớn của sản xuất nông nghiệp tại ĐBSCL - vùng trọng điểm lúa gạo và cây ăn trái của cả nước. Những tác động như thâm canh 3 vụ lúa liên tục, mất phù sa do hệ thống đê bao khép kín, lạm dụng phân bón vô cơ, khai thác tầng đất mặt để san lấp, cùng với ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đã và đang làm suy thoái nhanh chất lượng đất.
Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hiệp quốc (FAO) và nhiều đánh giá quốc tế, các dạng suy thoái đất phổ biến ở vùng nhiệt đới như xói mòn, nghèo dinh dưỡng, mặn hóa, phèn hóa và suy thoái sinh học đều thể hiện rõ ở ĐBSCL. Trong hệ thống thâm canh 3 vụ lúa trên đất phù sa, các biểu hiện suy thoái đất diễn ra rõ rệt. Nghiên cứu dài hạn từ năm 2003-2024 cho thấy, năng suất lúa của vùng giảm trung bình 16,6% chỉ sau 8 năm. Những biến đổi này phản ánh tình trạng đất bạc màu và sự phụ thuộc ngày càng lớn vào phân vô cơ. Tình trạng suy thoái cũng diễn ra mạnh trên đất vườn cây ăn trái lâu năm.
Hệ lụy lớn
Hệ quả của suy giảm độ phì đất ở ĐBSCL là sâu rộng và đa chiều. TS. Dũng chỉ ra, năng suất cây trồng giảm liên tục, chi phí phân bón và thuốc bảo vệ thực vật tăng, trong khi lợi nhuận giảm, làm cho sản xuất nông nghiệp trở nên kém hấp dẫn và thiếu bền vững. Suy giảm độ phì còn làm gia tăng rủi ro môi trường, gây ô nhiễm nước do rửa trôi phân bón, tăng phát thải khí nhà kính, tăng xói mòn, sạt lở và tăng nguy cơ mặn hóa, phèn hóa… Tất cả những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế nông hộ và đe dọa an ninh lương thực của vùng.
Chia sẻ về câu chuyện cadimi, GS.TS. Ngô Ngọc Hưng (Trường Nông nghiệp, Đại học Cần Thơ) cho biết, cadimi có trong nông sản từ đất bị nhiễm và trong phân lân (P) - được chế tạo từ đá apatit (luôn chứa một lượng cadimi).
TS. Hưng phân tích, thường cây trồng sử dụng phân lân dưới 30%, lượng 70% còn lại ít hòa tan trong đất. Qua các vụ kế tiếp, lượng phân lân dư thừa sẽ tiếp tục tích tụ trong đất. Sự tích tụ cadimi cùng song hành với sự lưu tồn lân trong đất và tăng dần từng năm.
GS.TS. Ngô Ngọc Hưng cho biết, Trung Quốc kiểm soát chặt ô nhiễm cadimi trong nông sản nhập khẩu, bởi từ năm 2014, nước này đã báo động đất canh tác bị ô nhiễm cadimi.
GS.TS. Ngô Ngọc Hưng cho rằng, ô nhiễm cadimi được quan tâm khắp thế giới, bởi tất cả đất trồng trên thế giới đều phải bón phân lân, việc bón lân thời gian dài gây tích tụ cadimi trong đất ở mức nguy hiểm. Qua cây trồng hấp thu, cadimi đi vào chuỗi thức ăn. Nồng độ cadimi cao trong đất cũng gây tác động tiêu cực đến sinh vật đất và hệ sinh thái đất. Hầu hết cadimi được cơ thể con người hấp thụ đều được bài tiết, nhưng có 5-10% vẫn được giữ lại, chủ yếu ở thận.
Từ các phân tích trên, các chuyên gia dự hội thảo cho rằng, quản lý độ phì nhiêu đất không chỉ cần giải pháp kỹ thuật, còn cần hướng chiến lược lâu dài. Điều này nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định của nông nghiệp ĐBSCL trong tương lai. Để quản lý và nâng cao độ phì nhiêu đất bền vững tại ĐBSCL, cần tăng cường phân tích đất và lá ở quy mô nông hộ để đưa ra khuyến cáo bón phân hợp lý, khuyến khích sử dụng phân hữu cơ và các vật liệu cải tạo đất.
Đồng thời, các chuyên gia cho rằng, cần giảm thâm canh lúa 3 vụ và mở rộng mô hình luân canh ở ĐBSCL. Kết hợp phát triển các mô hình kinh tế phù hợp theo từng nhóm đất như tôm - lúa cho vùng mặn, khóm - mía - rau chịu phèn cho vùng phèn và các mô hình trái cây, lúa - màu cho vùng phù sa. Cùng đó cũng cần đầu tư hệ thống thủy lợi thông minh, tăng cường tập huấn nông dân, đẩy mạnh nghiên cứu dài hạn về tác động của biến đổi khí hậu đối với đất…
ĐBSCL có hơn 4 triệu ha đất với bốn nhóm đất chủ đạo gồm đất phù sa, đất phèn, đất mặn và nhóm đất khác như đất xám bạc màu, đất than bùn và giồng cát. Mỗi nhóm đất mang đặc điểm lý hóa - sinh học riêng biệt và tạo nên sự đa dạng, phong phú trong hệ thống canh tác của vùng. Trong đó, đất phù sa chiếm khoảng 30%, phân bố đồng đều khắp vùng; đất phèn chiếm khoảng 44% tập trung ở vùng trũng thấp như Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, ven biển Cà Mau; đất mặn chiếm khoảng 18% tập trung ven biển và cửa sông…