Số lượng cấp tướng không quá 415 người
Về cấp bậc quân hàm cao nhất với chức vụ, chức danh của sĩ quan được quy định cụ thể tại Điều 15 của luật. Theo đó, cấp quân hàm Đại tướng, số lượng không quá 3, gồm: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Tổng Tham mưu trưởng; Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Thượng tướng, Đô đốc Hải quân, số lượng không quá 14, gồm: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng có cấp bậc quân hàm cao nhất là Thượng tướng, Đô đốc Hải quân không quá 6; Phó Tổng Tham mưu trưởng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, mỗi chức vụ có cấp bậc quân hàm cao nhất là thượng tướng không quá 3. Ngoài ra, còn có Giám đốc, Chính ủy Học viện Quốc phòng.
Các chức vụ, chức danh có cấp bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng, Phó Đô đốc Hải quân; Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân có số lượng không quá 398.
Như vậy, tổng số cấp bậc hàm cao nhất cấp tướng tối đa là 415 người.
Sĩ quan quân đội biệt phái được bầu giữ chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh có cấp bậc quân hàm cao nhất là Thượng tướng. Sĩ quan quân đội biệt phái được phê chuẩn giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh hoặc được bổ nhiệm chức vụ Thứ trưởng hoặc chức vụ, chức danh tương đương có cấp bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng.
Sĩ quan quân đội biệt phái được phê chuẩn giữ chức vụ Ủy viên Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh hoặc được bổ nhiệm chức vụ Tổng cục trưởng hoặc chức vụ, chức danh tương đương có cấp bậc quân hàm cao nhất là Thiếu tướng.
Chính phủ quy định vị trí có cấp bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng, Phó Đô đốc Hải quân, Thiếu tướng, Chuẩn đô đốc Hải quân và cấp bậc quân hàm cao nhất với chức vụ, chức danh của sĩ quan là cấp Tướng của đơn vị thành lập mới, đơn vị được tổ chức lại, bổ sung chức năng, nhiệm vụ nhưng không vượt quá số lượng tối đa vị trí cấp tướng theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Cấp bậc quân hàm cao nhất với chức vụ, chức danh của sĩ quan là cấp Tá, cấp Úy do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định.
Tuổi nghỉ hưu của sĩ quan quân đội tăng từ 1-5 tuổi
Luật quy định tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất với sĩ quan theo bậc quân hàm tăng từ 1-5 tuổi so với luật hiện hành.
Cụ thể, tuổi nghỉ hưu của cấp Úy 50 tuổi; Thiếu tá 52; Trung tá 54; Thượng tá 56; Đại tá 58 và cấp Tướng 60 tuổi.
Khi quân đội có nhu cầu, sĩ quan có đủ phẩm chất về chính trị, đạo đức, năng lực, sức khỏe và tự nguyện thì có thể được kéo dài tuổi phục vụ tại ngũ không quá 5 năm. Trường hợp đặc biệt có thể kéo dài hơn theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Quá trình thảo luận dự thảo luật trước đó, một số ý kiến đề nghị quy định tuổi của sĩ quan quân đội thống nhất theo Bộ luật Lao động và Luật Công an nhân dân; đề nghị quy định tuổi nghỉ hưu phù hợp cho từng quân, binh chủng, phù hợp với tính chất, môi trường, địa bàn công tác. Có ý kiến đề nghị giao thẩm quyền cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định về độ tuổi nghỉ hưu ở một số chức danh chỉ huy, quản lý nhưng không cao hơn độ tuổi theo cấp bậc quân hàm.
Giải trình vấn đề trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho hay, do cơ cấu, tổ chức, tính chất, nhiệm vụ, đối tượng tác chiến của quân đội và công an khác nhau, nếu tăng tuổi nghỉ hưu của sĩ quan quân đội bằng tuổi nghỉ hưu của sĩ quan công an hoặc bằng tuổi của người lao động theo Bộ luật Lao động sẽ không bảo đảm cho sĩ quan, nhất là sĩ quan ở các đơn vị sẵn sàng chiến đấu có đủ sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ.
Hằng năm, Quân đội vẫn phải tuyển sinh quân sự để sắp xếp và trẻ hóa đội ngũ cán bộ cấp phân đội, nếu tăng thêm tuổi so với dự thảo luật sẽ gây dôi dư, ùn tắc trong đội ngũ sĩ quan.
Việc tăng tuổi nghỉ hưu của sĩ quan như dự thảo luật trình Quốc hội thông qua vừa giữ gìn được đội ngũ sĩ quan được đào tạo cơ bản, có bản lĩnh, trình độ, kinh nghiệm, sức khỏe trong chỉ huy, quản lý, nghiên cứu, tham mưu và số cán bộ có chuyên môn trình độ cao để có nhiều thời gian phục vụ quân đội, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội hiện đại; vừa bảo đảm sĩ quan cơ bản có đủ số năm tham gia bảo hiểm xã hội để được hưởng lương hưu mức tối đa 75%.