Tăng chiến trường Abrams được quân đội Mỹ sử dụng lần đầu tiên trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh. Tại cuộc chiến này, chỉ một vài chiếc bị hư hại và không một chiếc nào bị phá hủy bởi hỏa lực đối phương.
Sau đó, xe tăng Abrams được triển khai tại Afghanistan trong nhiều năm. Hiện tại, Abrams là loại xe tăng chủ lực của Lục quân Mỹ.
Được sản xuất vào năm 1980, tăng chiến trường Abrams của Lục quân Mỹ là loại xe bọc thép siêu hạng trên mọi chiến trường.
Xe tăng Abrams có 3 phiên bản chính: M1, M1A1, và M1A2. Các phiên bản này tương đối giống nhau, nhưng các phiên bản sau được trang bị hỏa lực mạnh hơn và tầm quan sát rộng hơn.
Mặc dù mỗi xe tăng nặng hơn 60 tấn nhưng vẫn có thể chạy với tốc độ tối đa 64 km/giờ.
Sức mạnh của tăng Abrams nằm ở khẩu pháo chính 105 mm trên phiên bản M1 và pháo 120 mm.
Tăng Abrams có kíp điều khiển 4 người.
Ghế lái của tăng Abrams rất nóng và không gian chật hẹp, trong khi, ghế của các thành viên còn lại rất thoải mái.
Đạn cho pháo chính được ở bên trái của ghế lái xe tăng.
Khi xác định được mục tiêu trong tầm bắn, các thành viên trên xe tăng sẽ nạp đạn cho pháo chính để khai hỏa.
Ống nạp đạn cho pháo. Khi pháo khai hỏa, các thành viên trên xe tăng phải tránh xa vì vỏ đạn sẽ bật lại phía sau.
Có 3 hệ thống trên xe tăng giúp quan sát và xác định mục tiêu từ quan sát bằng mắt thường đến hệ thống ảnh nhiệt vào ban đêm.
Hỏa lực của xe tăng Abrams thể hiện sức mạnh.
Pháo chính sử dụng 3 loại đạn khác nhau tùy thuộc vào tầm bắn và địa điểm.
Đạn pháo của tăng Abrams có sức hủy diệt mạnh mẽ.
Ngoài pháo, tăng chiến trường Abrams cũng được trang bị súng máy .50 cal và hai khẩu súng máy M240 bắn đạn cỡ 7.62 mm.
Cũng như các loại xe tăng khác, Abrams sử dụng bánh xích giúp nó có thể di chuyển trên mọi bề mặt.
Vỏ của tăng Abrams rất chắc chắn, có thể chịu được thời tiết khắc nghiệt ở khu vực có tuyết phủ hay sa mạc.
Tăng Abrams có thể chống lại những loại vũ khí nhỏ và có thể ngăn cản phẩn lớn các loại xe tăng khác.
Tăng Abrams là phương tiện hộ trợ đắc lực cho lực lượng bộ binh.