Garford-Putilov là một loại xe bọc thép chiến đấu được sản xuất tại Nga trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mặc dù nó được coi là một cỗ máy chắc chắn và đáng tin cậy, nhưng Garford-Putilov là hết sức yếu kém. Với tổng trọng lượng khoảng 11 tấn và chỉ có một động cơ 30 mã lực, xe có tốc độ tối đa khoảng 16-18 km/h. Thiết kế này cũng đã bị quá tải (đầu xe quá nặng) và do đó đã rất hạn chế khả năng di chuyển của xe bọc thép này.
EV/4 Panzerkraftwagen Ehrhardt là một trong những ví dụ đầu tiên về thiết kế xe bọc thép cao và cạnh phẳng mà người Đức sử dụng chủ yếu cho nhiệm vụ lập kế hoạch nội bộ, sử dụng cho đến khi bắt đầu Thế chiến II. Nó nặng gần 9 tấn, đoàn vận hành có 8 hoặc 9 người và trang bị 3 súng máy.
Austin là một chiếc xe bọc thép do nước Anh sản xuất trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nó cũng được quân đội Nga sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và các lực lượng khác nhau sử dụng trong cuộc Nội chiến Nga.
Büssing A5P là loại xe bọc thép được sản xuất tại Đức trong Thế chiến I. Việc sản xuất A5P bắt đầu vào năm 1916 và được sản xuất với số lượng hạn chế. Nó có khoang xe lớn và chở được 10 người, trang bị 3 súng máy 7,92 mm, thường là MG 08 hoặc MG 15 nA. Một số xe thậm chí còn trang bị 2 pháo 20 mm. Các xe bọc thép Büssing A5P phục vụ trên mặt trận phía Đông cho đến năm 1917.
Xe bọc thép Jeffery được phát triển bởi Công ty Thomas B. Jeffery ở Kenosha, Wisconsin, Mỹ vào năm 1915.
Đây là loại xe bọc thép do nước Anh phát triển vào năm 1914 và được sử dụng trong Thế chiến I, trong những năm đầu của Thế chiến II. Rolls-Royce, trong chiến tranh phục vụ trên nhiều mặt trận của ở Trung Đông. Loại xe bọc thép này đã được hiện đại hóa vào năm 1920 và 1924, kết quả là có 2 mẫu Rolls-Royce 1920 và Rolls-Royce 1924. Năm 1940, 34 xe bọc thép loại này đã phục vụ tại Ai Cập với trung đoàn 11 Hussars, tháp pháo "cũ" thay thế bằng một khẩu súng chống tăng, súng máy Bren 0,303-inch và phóng lựu đạn khói.
Charron, Girardot et Voigt 1902 là một sản phẩm của Pháp, được thiết kế bởi kỹ sư Gruzia Mikheil Nakashidze vào năm 1902. Nó được trang bị một khẩu súng máy Hotchkiss, và giáp dày 7 mm cho chỗ ngồi của xạ thủ ở phía sau, tốc độ di chuyển của xe là 50km/giờ.
Xe bọc thép Davidson Automobile Battery được chế tạo bởi Royal Page Davidson và các học viên của Học viện Quân sự và Hải quân Northwestern ở Highland Park, Illinois. Davidson thiết kế chiếc xe này vào năm 1901.
Xe chiến đấu (Motor War Car) là chiếc xe bọc thép thực sự đầu tiên trên thế giới. Nó được thiết kế và xây dựng bởi nhà phát minh FR Simms người Anh năm 1899. Xe có lớp vỏ giáp dày 6 mm và được trang bị một động cơ Cannstatt Daimler bốn xi-lanh 3,3 lít 16 mã lực, nó có tốc độ tối đa khoảng 14,5 km /h.
Quadricycle được thiết kế và xây dựng bởi nhà phát minh người Anh FR Simms vào năm 1898. Ông đã chế tạo chiếc xe bằng cách gắn một khẩu súng máy Maxim trên các bánh xe phía trước thanh De Dion-Bouton của xe Quadricycle này. Ông cũng đặt một lá chắn sắt ở phía trước của xe để bảo vệ người lái. Người lái xe cũng là người điều khiển súng máy.