Trong hai năm 1926-1927, liên tiếp bùng nổ nhiều cuộc bãi công của công nhân, viên chức, học sinh học nghề. Lớn nhất là các cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định, công nhân hai đồn điền cao su Cam Tiêm (nay thuộc tỉnh Đồng Nai), Phú Riềng (nay thuộc tỉnh Bình Phước) và công nhân đồn điền cà phê Ray-na (Thái Nguyên).
Trên đà đó, phong trào công nhân đã mang tính thống nhất trong toàn quốc. Nhiều cuộc đấu tranh nổ ra từ Bắc chí Nam, lớn nhất là bãi công ở các nhà máy xi măng, nhà máy sợi Hải Phòng, nhà máy sợi Nam Định, nhà máy diêm, nhà máy cưa Bến Thủy, nhà máy xe lử Trường Thi (Vinh), nhà máy sửa chữa ô tô Avia Hà Nội, nhà máy Ba Son (Sài Gòn), mỏ than Hòn Gai và đồn điền cao su Phú Riềng.
Các cuộc đấu tranh đó đều mang tính chất chính trị, vượt ra ngoài phạm vi một xưởng, bước đầu liên kết được với nhiều ngành, nhiều địa phương Tình hình đó chứng tỏ trình độ giác ngộ của công nhân đã nâng lên rõ rệt, tuy chưa được đều khắp.
Cùng với phong trào công nhân thì phong trào nông dân, phong trào tiểu tư sản và các tầng lớp nhân dân yêu nước khác cũng phát triểu, kết thành một làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ khắc cả nước, trong đó giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập.
Trong bối cảnh đó, các tổ chức cách mạng nối tiếp nhau ra đời.
Tân Việt Cách mạng Đảng (7-1928)
Trong phong trào yêu nước dân chủ mạnh mẽ đầu những năm 20 của thế kỉ XX, một số sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương và nhóm tù chính trị cũ ở Trung Kì đã thành lập Hội Phục Việt . Bị lộ sau khi rải truyền đơn dòi nhà cầm quyền Pháp thả nhà yêu nước Phan Bội Châu (11-1925), Hội Phục Việt đã đổi tên nhiều lần và cuối cùng lấy tên là Tân Việt Cách mạng Đảng (7-1928).
Đảng Tân Việt tập hợp những trí thức trẻ và thanh niên tiểu tư sản yêu nước, hoạt động chủ yếu ở Trung Kì. Ra đời và hoạt động trong điều kiện Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát triển mạng mẽ, lí luận và tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin có ảnh hưởng lớn, cuốn hút nhiều đảng viên trẻ, tiên tiến đi theo, nội bộ Tân Việt đã diễn ra một cuộc đấu trnah giữa hai xu hướng tư tưởng: vô sản và tư sản.
Cuối cùng, xu hướng cách mạng theo quan điểm vô sản chiếm ưu thế. Một số đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã chuyển sang Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tích cực chuẩn bị tiến tới thành lập một chính đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Mác –Lênin.
Việt Nam Quốc Dân Đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930)
Không bao lâu sau khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Tân Việt Cách mạng đảng ra đời thì Việt Nam Quốc dân đảng cũng được thành lập (25-12-1927).
Cơ sở hạt nhân đầu tiên của đảng là Nam đồng thư xã – một nhà xuất bản tiến bộ, tập hợp một nhóm thanh niên yêu nước chưa có đường lối chính trị rõ rệt.
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào dân tộc dân chủ, cộng với ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng mới từ bên ngoài dội vào, đặc biệt là ảnh hưởng của cách mạng Trung Quốc với "chủ nghĩa Tâm dân" của Tôn Trung Sơn (một trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản thịnh hành ở Trung Quốc bấy giờ), đã dẫn tới sự ra đời của Việt Nam Quốc dân Đảng.
Lược đồ cuộc khởi nghĩa Yên Bái (Ảnh: sachgiai.com)
Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài và Phó Đức Chính sáng lập, là một đảng chính trị theo xu hướng cách mạng dân chủ tư sản, tiêu biểu cho bộ phận tư sản dân tộc Việt Nam.
Địa bàn hoạt động chính của đảng này là Bắc Kì. Mục tiêu của đảng là nhằm đánh đuổi giặc Pháp, thiết lập dân quyền. Đảng viên của đảng gồm sinh viên, học sinh, công chức, tư sản lớp dưới, người làm nghề tự do và cả một số nông dân khá giả, thân hào, địa chủ ở nông thôn, binh lính, hạ sĩ quan người Việt trong quân đội Pháp.
Ngày 9-2-1929, ở Hà Nội xảy ra vụ giết Ba-danh, trùm mộ phu cho các đồn điền cao su. Thực dân Pháp liền tổ chức nhiều cuộc vây ráp lớn. Số đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng bị bắt có tới gần 1000 người, nhiều cơ sở ở các nơi bị phá vỡ, hầu hết cán bộ từ trung ương đến địa phương đều sa lưới giặc.
Bị động trước tình thế, mặc dù hệ thống tổ chức của đảng chưa kịp xây dựng và củng cố lại, các nhân vật chủ yếu còn lại của đảng đã quyết định hành động.
Cuộc khởi khĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng nổ ra đêm 9-2-1930 ở Yên Bái, Phú Thọ, sau đó là ở Hải Dương, Thái Bình; riêng ở Hà Nội, đã tổ chức ném bom vào Sở Mật thám, Sở Cảnh sát...
Tại Yên Bái, quân khởi nghĩa chiếm được trại lính, giết và làm bị thương một số sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp, nhưng không làm chủ được tỉnh lị nên hôm sau đã bị quân Pháp phản công và tiêu diệt.Ở các nơi khác , nghĩa quân cũng chỉ tạm thời làm chủ mấy huyện lị, nhưng sau đó đã nhanh chóng bị địch phản công chiếm lại. Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí khi lên máy chém đã hô to: "Việt Nam vạn tuế" (Việt Nam muôn năm).
Khởi nghĩa Yên Bái thất bại nhanh chsong vì nhiều nguyên nhân. Về khách quan. Đế quốc Pháp lúc đó còn mạnh, đủ sức đàn áp một cuộc đấu tranh vũ trang vừa đơn độc, vừa non kém như ở Yên Bái.
Về chủ quan, Việt Nam Quốc dân Đảng vừa non yếu lại không vững chắc về tổ chức và lãnh đạo. Kết quả là phong trào dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản dưới ngọn cờ Việt Nam Quốc dân Đảng đã nhanh chóng tan rã trước sự khủng bố ác liệt của quân thù.
Tuy thất bại, khởi nghĩa Yên Bái đã góp phần cổ vũ lòng yêu nước và chí căm thù của nhân dân ta đối với bè lũ cướp nước và tay sai.
Ba tổ chức cộng sản nối tiếp nhau ra đời trong năm 1929
Từ cuối năm 1928 đến đầu năm 1929, phong trào dân tộc và dân chủ ở nước nước ta, đặc biệt là phong trào công nông theo con đường cách mạng vô sản, đã phát triển mạnh mẽ. Trước tình hình đó, cần phải thành lập một đảng cộng sản để tổ chức và lãnh đạo giai cấp công nhân, giai cấp nông dân cùng các lực lượng yêu nước và cách mạng khác đấu tranh chống đế quốc và phong kiến tay sai, giành độc lập và tự do.
Cuối tháng 3-1929, một số thành viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Bắc kì (trong đó có Ngô Gia Tự và Nguyễn Đức Cảnh) đã họp tại số nhà 5D phố Hàm Long (Hà Nội) để lập chi bộ cộng sản đàu tiên ở Việt Nam gồm 7 người, tích cực chuẩn bị tiến hành thành lập một đảng cộng sản thay thế cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Nhà số 5D phố Hàm Long, Hà Nội
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (5-1929), khi kiến nghị thành lập Đảng Cộng Sản không được chấp nhận, đoàn đại biểu Bắc kì bèn bỏ Đại hội về nước rồi ra lời kêu gọi công nhân, nông dân, các tầng lớp nhân dân cách mạng nước ta ủng hộ chủ trương thành lập đảng cộng sản.
Ngày 17-6-1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp đại hội, quyết định thành lập Đông Dương Cộng Sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ của Đảng, ra báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận.
Tiếp đó, các hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Trung Quốc và ở Nam Kì cũng quyết định lập An Nam Cộng Sản Đảng.
Sự ra đời của Đông Dương Cộng Sản Đảng( 6-1929) và An Nam Cộng Sản Đảng (8-1929) đã tác động mạnh mẽ đến Tân Việt Cách mạng Đảng. Các đảng viên tiên tiến của Đảng Tân Việt, từ lâu đã chịu ảnh hưởng của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, cũng tách ra để thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn (9-1929). Như vậy, đến tháng 9-1929 ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản lần lượt tuyên bố thành lập.
Bài viết nhằm giúp cho độc giả nào chưa có điều kiện tìm hiểu lịch sử nước nhà có thêm kiến thức tham khảo, theo tinh thần "Dân ta phải biết Sử ta". Nguồn: SGK Sử lớp 9, tr 64-65-66-67-68.