Theo VKSND Tối cao, sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như quá trình hội nhập quốc tế của nước ta đã phát sinh nhiều hành vi cần phải xử lý hình sự. Chẳng hạn, hành vi chiếm đoạt thuế giá trị gia tăng của các doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp khấu trừ; chiếm dụng vốn giữa các cá nhân với doanh nghiệp; nhận bao thư, quà biếu của cán bộ, công chức.
Hay các hành vi liên quan đến công nghệ cao như sử dụng công nghệ để bán hàng ảo đa cấp; làm và lưu hành thẻ thanh toán ATM giả; xâm phạm trái phép vào mạng chuyên dùng để đánh cắp dữ liệu hoặc làm sai lệch dữ liệu của máy tính.
Hoặc sử dụng tin nhắn rác giả thông tin khuyến mãi để chiếm đoạt tài sản của người khác; quấy rối, khủng bố, phát tán hình ảnh, đời tư của người khác qua các thiết bị viễn thông, Internet; cung cấp thông tin không có thật cho cơ quan nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng…
Bên cạnh đó, các hành vi liên quan đến quyền con người như giới thiệu trẻ em làm con nuôi để trục lợi; mua bán đàn ông; mua bán nội tạng người vì mục đích lợi nhuận; môi giới mại dâm nam… hiện cũng chưa được tội phạm hóa.
Bỏ hình phạt cảnh cáo?
VKSND Tối cao đánh giá việc áp dụng biện pháp tư pháp còn chưa triệt để, hướng dẫn thực hiện Bộ luật Hình sự còn thiếu thống nhất, nhiều hành vi nguy hiểm mới phát sinh chưa được tội phạm hóa…
Các biện pháp tư pháp trong án hình sự thường được cơ quan tố tụng sử dụng là tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm (Điều 41), trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại (khoản 1, khoản 2 Điều 42), bắt buộc chữa bệnh (Điều 43).
Tuy nhiên, biện pháp buộc công khai xin lỗi người bị hại (khoản 2 Điều 42) rất ít khi được áp dụng. Tương tự là các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội như giáo dục tại xã, phường, thị trấn hay đưa vào trường giáo dưỡng (Điều 70).
Nguyên nhân do các tội phạm cụ thể mà luật quy định buộc người phạm tội phải xin lỗi công khai còn ít. Mặt khác, thực tiễn xét xử cho thấy người bị hại thường ít khi yêu cầu người phạm tội xin lỗi. Chưa kể tính cưỡng chế thi hành đối với biện pháp tư pháp này trên thực tế cũng không cao.
Về việc ít áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, nguyên nhân là do những người tiến hành tố tụng chưa nhận thức đúng đắn về nguyên tắc xử lý, chưa hiểu đầy đủ về ý nghĩa, tác dụng cải tạo, giáo dục, định hình nhân cách của các biện pháp này đối với người chưa thành niên. Ngoài ra, văn bản hướng dẫn thi hành các biện pháp này hiện còn thiếu.
VKSND Tối cao đề xuất nên bỏ hình phạt cảnh cáo (Điều 29) vì thực tiễn cho thấy nó không có tác dụng răn đe, giáo dục người phạm tội và cũng ít được áp dụng nên mục đích của hình phạt không đạt được.
Với hình phạt tiền (Điều 30), cần sửa đổi theo hướng nếu không chấp hành việc đóng phạt tiền thì người phạm tội sẽ bị buộc chuyển sang một hình phạt khác như lao động công ích. Mở rộng hình phạt này đối với các loại tội xâm phạm sở hữu, tội phạm kinh tế hay xâm phạm trật tự công cộng.
Mặt khác, nhà làm luật phải điều chỉnh mức tiền phạt cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội ở từng thời điểm khác nhau theo hướng tăng số tiền phạt để có tính răn đe, chẳng hạn quy định mức tối thiểu là 20 triệu đồng, tối đa là 20 tỷ đồng.
Cạnh đó, nên bỏ khoản 4 của điều luật (tiền phạt có thể nộp một lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do tòa quyết định trong bản án) bởi nếu giữ thì sẽ không đảm bảo tính khả khi của hình phạt và trái với quy định của Luật Thi hành án dân sự.
Ngoài ra, luật nên quy định thêm về hình phạt bổ sung tước một số quyền công dân trong các tội phạm cụ thể ngoài các tội về xâm phạm an ninh quốc gia.