Vừa qua, tại chương trình Nhân Humanity, tiến sĩ – NSND Bạch Tuyết đã chia sẻ về lý do vì sao vẫn ở Việt Nam dù từng có chồng quốc tịch Pháp và con trai ở Mỹ.
Bà nói: "Tôi hát cải lương mà không ở Việt Nam thì hát cho ai nghe? Tây đâu có nghe cải lương. Tôi là người Việt Nam, tôi hát cải lương và cảm ơn người Việt Nam đã nghe tôi hát và yêu thương tôi.
Chỉ khi ở Việt Nam tôi mới được hát cải lương mà có khán giả nghe rồi vỗ tay. Chỉ khán giả Việt Nam mới vỗ tay. Khán giả Việt Nam trả tiền cho tôi. Đó là sự lương thiện của cả hai bên.
Và đó cũng là điều quý nhất của văn hóa một dân tộc trăm năm".
NSND Bạch Tuyết được biết tới là người có sự nghiệp, đời sống viên mãn. Khi được hỏi về điều còn tiếc nuối vì chưa làm được trong sự nghiệp của mình, bà chia sẻ:
"Tôi không tiếc, không hi vọng và cũng không nghĩ gì. Tôi sống mỗi ngày đều vui và hài lòng với những gì đang diễn ra. Tôi cảm ơn tất cả, biết ơn tất cả.
Khi tôi sống thoải mái, tôi sẽ không cảm nhận được mình già hay trẻ. Những người trẻ nói chuyện với tôi cũng cảm thấy như một người bạn, không có cảm giác đang nói chuyện với một người lớn tuổi, già nua, phải gọi dạ bảo vâng.
Điều này không phải tôi nói mà tôi học được từ má bảy Phùng Há. Ngày xưa tôi còn nhỏ đi học má bày Phùng Há, má bảo tôi: Con đừng tưởng con biết ơn má, không có đâu. Má con mình đều biết ơn nhau vì khi má dạy con, má hưởng được sức trẻ của con nên má con mình công bằng.
Ngày đó nghe má bảy Phùng Há nói như vậy, tôi không hiểu. Bây giờ tôi mới cảm nhận được những điều bà nói là hết sức chân thật, cao quý chứ không phải nói về lịch sự.
Mỗi lần nhắc lại tôi lạ nhớ má bảy, nước mắt rưng rưng. Lúc má bảy Phùng Há mất, tôi rưng rưng bảo rằng: Má ơi, ngày đó con chưa hiểu má. Tới lúc con hiểu rồi thì con chưa nói được trực tiếp với má. Nhưng con đã làm được với những người trẻ xung quanh con.
Vì vậy nên người trẻ mới bu quanh tôi và tôi làm được chương trình Học viện cải lương vừa rồi".
Năm 1995, NSND Bạch Tuyết bảo vệ luận án Tiến sĩ với đề tài "Sự thích nghi của nghệ thuật sân khấu dân tộc cổ truyền của các quốc gia Đông Nam Á" và trở thành tiến sĩ nghệ thuật Cải lương đầu tiên của Việt Nam.