Tối 22/4, ông Nguyễn Quốc Triệu, Trưởng Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương cho biết, Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước đã từ trần hồi 20h10 phút tối 22/4/2019 tại nhà Công vụ, số 5A phố Hoàng Diệu, Hà Nội sau một thời gian dài lâm bệnh.
Lễ viếng, lễ truy điệu, lễ an táng Đại tướng Lê Đức Anh sẽ được thông báo cụ thể sau đây.
Đại tướng Lê Đức Anh, bí danh: Sáu Nam, sinh ngày 1/2/1920, quê quán: Phú Lộc - Thừa Thiên Huế
Ông nguyên là Uỷ viên Bộ Chính trị khóa: V, VI, VII và VIII, Uỷ viên Trung ương Đảng khóa: IV, V, VI, VII và VIII; đại biểu Quốc hội khóa: VI, VII, VIII và IX.
Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. (Ảnh: TTXVN)
Ông Lê Đức Anh được thăng quân hàm Đại tướng năm 1984. Trong cuộc đời binh nghiệp vẻ vang của mình, Đại tướng Lê Đức Anh đã chiến đấu hơn 30 năm trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, và 10 năm trên chiến trường nước bạn Campuchia giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng Khmer Đỏ.
Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh tham gia hoạt động cách mạng từ 1937 trong Mặt trận Dân chủ huyện Phú Vang và Phú Lộc (Thừa Thiên Huế).
Năm 1938, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1944, ông tổ chức và phụ trách các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, ông giữ các chức vụ từ Trung đội trưởng, Chính trị viên Tiểu đoàn, Trung đoàn. Từ tháng 10/1948, ông là Tham mưu trưởng Quân khu 7, Quân khu 8 và đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn.
Từ 1951, ông là Tham mưu phó, quyền Tham mưu Trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Sau đó, ông là Cục phó Cục Tác chiến; Cục Trưởng Cục Quân lực thuộc Bộ Tổng Tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam.
Từ tháng 8/1963, ông là Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam.
Tháng 2/1964 đến 1974, ông là Phó Tư lệnh, kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Miền Nam; Tư lệnh Quân khu 9.
Ông đảm nhiệm Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam từ 1974. Tháng 6/1974, ông được thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng, làm Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, kiêm Tư Lệnh cánh quân hướng Tây Nam đánh vào Sài Gòn.
Khi đất nước thống nhất, ông làm Tư lệnh Quân khu 9; Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, kiêm chỉ huy trưởng Cơ quan tiền phương của Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam; được thăng quân hàm Thượng tướng năm 1980.
Từ 1981 - 1986, ông là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Camphuchia.
Năm 1982, ông được Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa V bầu vào Bộ Chính trị.
Ông được thăng quân hàm Đại tướng năm 1984; giữ chức Tổng Tham mưu trưởng QĐNDViệt Nam từ năm 1986.
Đại tướng Lê Đức Anh giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng từ tháng 2/1987. Năm 1992, ông được Quốc hội bầu làm Chủ tịch nước. Đến năm 1997, ông là cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng và nghỉ hưu năm 2001.
Đại tướng Lê Đức Anh đã được khen thưởng: Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều Huân, Huy chương cao quý khác.