Ông Thái Minh Trí (66 tuổi, trú tại phường Hà Huy Tập, TP Vinh, Nghệ An) nguyên là Giám đốc Công ty TNHH Thái Dương Nghệ An (viết tắt là Công ty Thái Dương), nguyên Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Cổ phần khoáng sản Lào- Việt.
Trong thời điểm quản lý hai công ty này, ông Trí đã thực hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật để chiếm đoạt của hai cổ đông góp vốn số tiền hơn 6,7 tỷ đồng.
Giúp sức tích cực cho hành vi phạm tội của ông Trí là ông Dương Minh Hải (58 tuổi, trú tại phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội), nguyên Phó Giám đốc Công ty liên doanh khoáng sản Lào- Việt.
Chiều 21- 5, TAND TP Hà Nội đã kết phúc phiên tòa hình sự sơ thẩm xét xử vụ án này.
Theo cáo trạng của Viện KSND tối cao, Công ty Thái Dương thời điểm ông Trí làm Giám đốc đã ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với Công ty khai thác khoáng sản Thảo Oong Khăm (viết tắt là Công ty Thảo Oong Khăm) do ông Oong Khăm Sivilay (quốc tịch Lào) làm Giám đốc để liên doanh thăm dò, khai thác, chế biến quặng tại tại mỏ Huội Chừn, huyện Xăm Tạy, tỉnh Hủa Phăn (Lào).
Trong quá trình liên doanh hợp tác với Công ty Thảo Oong Khăm khai thác mỏ Huổi Chừn, ông Trí đã sử dụng hợp đồng liên danh số 07 ngày 15- 6- 2006 (bản tiếng Việt) có chữ ký giả của ông Oong Khăm Sivilay để trình nộp cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài; làm giả biên bản họp Hội đồng thành viên Công ty Thái Dương ngày 19- 3- 2008 cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam đề nghị điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài.
Từ tháng 4-2008 đến khi bị bắt vào tháng 5-2009, ông Trí và ông Hải đã sử dụng con dấu giả mang tên Công ty TNHH cổ phần khoáng sản Lào- Việt đóng vào 38 văn bản gửi các cơ quan chức năng của Lào và Việt Nam để thực hiện mục đích cá nhân của mình.
Bằng các hợp đồng hợp tác kinh doanh với Công ty Thái Dương, Công ty cổ phần dịch vụ dạy nghề Thái Dương do ông Đoàn Văn Huấn làm Giám đốc và Công ty TNHH Thiên Phú do bà Chu Thị Thành làm Giám đốc đã đầu tư trực tiếp vào mỏ Huổi Chừn với tổng số tiền hơn 21 tỷ đồng.
Ngày 18-1-2008, Bộ Kế hoạch Đầu tư Lào cấp Giấy phép đầu tư nước ngoài số 006- 08 cho phép thành lập Công ty TNHH cổ phần khoáng sản Lào- Việt với các cổ đông: Oong Khăm Sivilay giữ 35% cổ phần, Thái Lương Trí giữ 37% cổ phần, Đoàn Văn Huấn giữ 18% cổ phần và Chu Thị Thành giữ 10% cổ phần.
Nhưng ngay sau khi các cổ đông của công ty này họp, thống nhất bầu các chức danh, xác định số tiền đã góp vốn của mỗi cổ đông, ông Trí đã bàn bạc cùng với ông Hải thực hiện các thủ tục để được các cơ quan chức năng của Lào cấp giấy đăng ký doanh nghiệp, đăng lý kinh doanh, giấy phép khắc dấu, điều lệ công ty… ký kết hợp đồng với Chính phủ Lào và xin Bộ Kế hoạch Đầu tư Lào cấp Giấy phép đầu tư ra nước ngoài để thành lập công ty mới, loại bỏ quyền sở hữu của hai cổ đông Đoàn Văn Huấn và Chu Thị Thành để chiếm đoạt tiền góp vốn thực tế của hai cổ đông tổng số tiền hơn 6,7 tỷ đồng, trong đó số tiền của ông Huấn là hơn 4,3 tỷ đồng và của bà Thành hơn 2,3 tỷ đồng.
Quá trình xét xử, HĐXX xác định, hành vi sử dụng hợp đồng giả số 07 ngày 15- 6- 2006 (bản tiếng Việt), làm giả biên bản họp Hội đồng thành viên Công ty Thái Dương ngày 19-3-2008 nộp cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam đề nghị điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài, sử dụng con dấu giả mang tên Công ty TNHH cổ phần khoáng sản Lào- Việt của bị cáo Trí đã phạm vào tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức.
Sau khi hai cổ đông và ông Huấn và bà Thành góp vốn đầu tư vào mỏ Huổi Chừn, bị cáo Trí đã thực hiện hành vi gian dối để chiếm đoạt số tiền trên đã phạm vào tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
HĐXX đã tuyên phạt bị cáo Trí 18 năm tù về hai tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; bị cáo Hải bị tuyên phạt 15 năm tù về hai tội danh trên.