Tôn giáo
Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo
Ở các thế kỷ XVI - XVII, Nho giáo vẫn được chính quyền phong kiến đề cao trong học tập, thi cử và tuyển lựa quan lại. Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế ở thế kỉ XV, nay được phục hồi. Trong nông thôn, nhân dân ta vẫn giữ nếp văn hóa truyền thống.
Tranh vẽ biểu diễn võ nghệ thế kỷ thứ XVII (Nguồn ảnh: hoc24.vn)
Làng xã thờ thành hoàng, gia đình thờ tổ tiên. Hàng năm làngmở hội tại đình, có nơi tại chùa. Dân làng tổ chức biểu diễn chèo tuồng, múa rối hoặc nhiều trò chơi (đánh vật, đua thuyền, đấu cờ, thổi cơm thi, leo dây đi cà kheo).
Hình thức sinh hoạt văn hoá qua các lễ hội đã thắt chặt tình đoàn kết trong thôn xóm và bồi đắp tinh thần yêu quê hương, đấ nước
"Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng".
Thiên Chúa giáo
Đạo Thiên Chúa phát triển ở châu Âu từ thời cổ - trung đại, trung tâm là Giáo hội La Ma (Roma, Italia). Từ năm 1533, các giáo sĩ (người Bồ Ðào Nha) theo thuyền buôn phương Tây đến nuróc ta truyền bá đạo này. Sang thế kỉ XVII - XVIII, cùng với việc chạy đua tìm nguồnn lợi và tài nguyên của thương gia châu Âu, hoạt động của các giáo sĩ truyền đạo Thiên Chúa ngày càng tăng.
Ðạo Thiên Chúa không phù hợp với cách cai trị dân của chúa Trinh, chúa Nguyễn. Do vậy, các chúa đã nhiều lần ngăn cấm, nhưng các giáo sĩ vẫn tiếp tục tìm cách để truyền đạo.
Sự ra đời chữ Quốc ngữ
Cho đến thế kỉ XVII, tiếng Việt đã phong phú và trong sáng. Một số giáo sĩ phương Tây học tiếng Việt để truyền đạo Thiên Chúa. Họ dùng chữ cái La-tinh ghi âm tiếng Việt.
Dùng chữ cái La-tinh ghi âm tiếng Việt là công trình của nhiều giáo sĩ phương Tây hợp tác với người Việt Nam, trải qua một quá trình lâu dài. Giáo sĩ A-lêc-xăng đơ Rốt (Alexandre de Rhôdes) là người có đóng góp quan trọng trong việc này. Năm 1651, ông cho xuất bản quyển Từ điển Việt- Bồ - La-tinh. Chữ Quốc ngữ đã ra đời như vậy. Một thời gian dài, chữ Quốc ngữ chỉ lưu hành trong giới truyền đạo. Đây là thứ chữ viết tiện lợi, khoa học, dễ phổ biến.
Giáo sĩ Alexandre de Rhôdes
Văn học và nghệ thuật dân gian
Trong các thế kỉ XVI - XVII, tuy văn học chữ Hán vẫn chiếm ưu thế, nhưng văn học chữ Nôm đã phát triển mạnh hơn trước. Thơ Nôm, truyện Nôm xuất hiện ngày càng nhiều. Có truyện Nôm dài hơn 8000 câu như bộ diễn ca lịch sử Thiên Nam ngũ lục,
Nội dung các truyện Nôm thường viết về hạnh phúc con người, tố cáo những bất công xã hội và bộ máy quan lại thối nát. Những nhà thơ nổi tiếng đương thời như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ... đều có tác phẩm bằng chữ Nôm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm 1491 – 1585, huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng), đỗ Trạng nguyên làm quan triều Mạc rồi từ quan về dạy học, người đương thời quen gọi là Trạng Trình. Ông có tấm lòng cao thượng, muốn "lo trước những việc lo của thiên hạ".
Đào Duy Từ (1572-1634) vừa là một nhà thơ lớn, nhà văn hóa, nhà quân sự có tài. Ông sinh ra tại làng Hoa Trai (Tĩnh Gia, Thanh Hóa), có tài nhưng không được chúa Trịnh cho đi thi.
Vào Đàng Trong, Đào Duy Từ được chúa Nguyễn phong tước hầu và trọng dụng trong việc xây dựng hệ thống Lũy Thầy. Ông còn viết một số tác phẩm, có công phát triển nghề hát bội ở Đàng Trong và là người khởi thảo tuồn Sơn Hậu.
Sang đầu thế ki XVIII, văn học dân gian phát triển phong phú. Bên cạnh những truyện Nôm dài như Phan Trần, Nhị Độ Mai, Thạch Sanh, còn có truyện Trạng Quỳnh, Trạmg Lợn, truyện tiếu lâm. Thể thơ Lục bát và Song thất lục bát được sử dụng rộng rãi.
Điểm nổi bật ở thế kỷ này là sự phục hồi và phát triển của nghệ thuật dân gian. Nhiều khách nước ngoài đến nước ta vào thế kỉ XVII còn đượcc xem biểu diễn múa trên dây, múa đèn và các trò ảo thuật. Điêu khắc trong các đình, chùa diễn tả cảnh sinh hoạt thường ngày ở nông thôn (chèo thuyền, vật, chơi đi cày, tắm ao, đánh cờ...) nét chạm trổ đơn giản mà dứt khoát.
Nổi tiếng nhất là tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt, nghìn tay ở chùa Bút Tháp ( Bắc Ninh). Trên bức tượng, các cánh tay to xòe ra uyển chuyển như động tác múa. Những bàn tay nhỏ sắp xếp như ánh hào quang tỏa ra xung quanh. Bức tượng có vẻ đẹp tự nhiên, mềm mại.
Tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
Nghệ thuật sân khấu cũng đa dạng và phong phú. Khắp nông thôn, đâu đâu cũng có gánh hát. Nội dung các vở chèo, tuồng, hát ả đào... thường phản ánh đời sống lao động cần cù, vất vả nhưng lạc quan của nhân dân, lên án kẻ gian nịnh và ca ngợi tình yêu thương con người.
Khách nước ngoài đã ghi lại bằng những kí họa cảnh biểu diễn múa trên dây, đánh đu, luyện võ... nước ta thời bấy giờ.
Bài viết nhằm giúp cho độc giả nào chưa có điều kiện tìm hiểu lịch sử nước nhà có thêm kiến thức tham khảo, theo tinh thần "Dân ta phải biết Sử ta". Nguồn: SGK Sử lớp 7, tr. 113-1114-1115-116.