Số liệu của IMF cho hay, quy mô kinh tế Việt Nam vào năm 1990 ghi nhận ở mức 8,22 tỷ USD. Đến năm 2008, con số này đã tăng lên mức 125 tỷ USD, cao gấp 15 lần so với thời điểm 1990. Trong giai đoạn từ 2008-, Việt Nam chỉ mất 15 năm để quy mô kinh tế tăng từ mức 100 tỷ USD lên mức 400 tỷ USD.
Về thứ hạng trong khu vực Đông Nam Á, trong năm 1990, với quy mô GDP chỉ khoảng 8,22 tỷ USD tỷ, kinh tế Việt Nam đứng sau hàng loạt nền kinh tế như Indonesia, Singapore, Thái Lan, Malaysia, Philippines.
Đến năm 2023, quy mô GDP của Việt Nam đạt khoảng 433,7 tỷ USD, xếp thứ 5 trong khu vực. Với kết quả này, quy mô kinh tế của Việt Nam năm 2023 xếp trên Malaysia (415,57 tỷ USD), Myanmar (64,5 tỷ USD), Campuchia (41,86 tỷ USD), Lào (15,2 tỷ USD), Brunei (15,13 tỷ USD), và Đông Timor (2 tỷ USD).
Năm 2024, IMF ước tính, quy mô GDP của Việt Nam có thể đạt khoảng 448,4 tỷ USD, xếp thứ 5 trong khu vực. Trong khi đó, Indonesia dẫn đầu khu vực với quy mô GDP đạt khoảng 1,4 nghìn tỷ USD. Xếp thứ hai là Singapore với quy mô GDP năm 2024 ước đạt 530,7 tỷ USD. Theo sau lần lượt là Thái Lan và Philippines, với quy mô GDP theo giá hiện hành lần lượt ước đạt 528,9 tỷ USD và 470 tỷ USD.
Đáng chú ý, IMF dự báo, đến năm 2028, GDP của Việt Nam có thể đạt khoảng 628 tỷ USD. Với kết quả này, quy mô GDP của Việt Nam sẽ vượt Thái Lan (624 tỷ USD) để trờ thành nền kinh tế lớn thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á, và lớn thứ 32 trên thế giới.
Còn báo cáo của Trung tâm dự báo, phân tích kinh tế độc lập của Anh (CEBR) đánh giá, năm 2024, với quy mô GDP theo giá hiện hành đạt 450 tỷ USD, Việt Nam dự kiến ở vị trí 34 trên Bảng xếp hạng liên minh kinh tế thế giới (World Economic League Table – WELT).
Các chuyên gia CEBR cho biết, Việt Nam đã đạt được một sự cân bằng thuận lợi giữa tăng trưởng và lạm phát vào năm 2024, với mức tăng trưởng GDP vượt mức trung bình với mức lạm phát dự kiến là 4,1%.
"Điều này trái ngược với sự gia tăng lạm phát mạnh mẽ ở nhiều nền kinh tế trên toàn thế giới", CEBR nhận định.
Đáng chú ý, các chuyên gia CEBR ước tính, thứ hạng quy mô kinh tế của Việt Nam có thể tăng nhanh trong tương lai. Theo đó, CEBR dự báo, đến năm 2029, với quy mô GDP dự kiến đạt 676 tỷ USD, Việt Nam sẽ vươn lên vị trí thứ 33, đuổi kịp Thái Lan (676 tỷ USD) và vượt qua các nền kinh tế khác trong khu vực ASEAN như Singapore (656 tỷ USD), Malaysia (594 tỷ USD).
Đến năm 2034, với GDP dự kiến đạt 983 tỷ USD, quy mô kinh tế của Việt Nam sẽ vượt 'xứ chùa Vàng' Thái Lan (848 tỷ USD) để trở thành nền kinh tế lớn thứ 27 trên thế giới. Và vào năm 2039, CEBR ước tính, quy mô kinh tế của Việt Nam có thể đạt 1.410 tỷ USD. Với kết quả này, Việt Nam sẽ vươn lên vị trí thứ 25, vượt qua các nền kinh tế khác trong khu vực ASEAN như Thái Lan (1.059 tỷ USD), Singapore (982 tỷ USD), Malaysia (1.055 tỷ USD) để lọt nhóm 25 nền kinh tế lớn nhất thế giới.