Lưu Dung tự là Sùng Như, hiệu Thạch Am, quê ở thôn Bàng Qua Trang, trấn Chú Câu (nay là thị xã Cao Mật), huyện Như Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.
Sinh thời, ông là đại thần tận tụy suốt hai đời vua Càn Long và Gia Khánh, từng làm tới chức Đại học sĩ Thể Nhân Các, Thái tử Thái bảo.
Không chỉ được người đời ca tụng là vị quan nổi tiếng thanh bạch, liêm khiết, Lưu Dung còn lưu danh hậu thế nhờ tài năng nghệ thuật hiếm có của mình.
Tương truyền rằng, thư pháp của ông đường nét rắn rỏi, nét bút có hồn, vừa đẹp mắt lại vừa độc đáo. Bên cạnh vai trò là một chính trị gia nổi tiếng, Lưu Dung còn được vinh danh trong hàng ngũ “Tứ đại thư pháp gia” nức tiếng Thanh triều.
Tên tuổi của vị quan này từng trở thành cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học và điện ảnh.
Năm 1996, bộ phim “Tể tướng Lưu gù” dưới sự thể hiện của Lý Bảo Điền, Trương Quốc Lập và Vương Cương đã gây được tiếng vang lớn, đồng thời cũng đưa biệt danh “Lưu gù” của vị quan họ Lưu này trở nên nổi tiếng.
Hình tượng một Lưu Dung thấp bé với tấm lưng còng đã khắc sâu trong tâm trí hậu thế. (Ảnh từ bộ phim Tể tướng Lưu Gù năm 1996).
Vậy nhưng, sự thật phía sau tấm lưng gù của Lưu Dung lại là điều ít ai biết tới. Nhà sử học Khương Vĩ Đường trong tác phẩm “Biệt hiệu Lưu gù” từng đưa ra lời khẳng định: Kỳ thực Lưu Dung không phải là người gù bẩm sinh!
Khảo cứu những tư liệu lịch sử liên quan đến thi cử của Thanh triều, Khương Vĩ Đình đưa ra luận cứ: Thời nhà Thanh có tiêu chuẩn tuyển chọn quan lại dựa trên “Thân, ngôn, thư, pháp.”
Theo đó, người muốn tiến quan không phải cứ thi đỗ là được, mà còn phải trải qua một cuộc sát hạch được đề ra theo bốn tiêu chí này.
Chỉ những người có ngoại hình đạt chuẩn (yếu tố “thân”), lời lẽ biết phân biệt phải trái (yếu tố “ngôn”), chữ viết đẹp, rắn rỏi (yếu tố “thư”), lời văn phải đúng quy cách, vượt trội, ưu tú (yếu tố “phán”) thì mới có cơ hội bước vào đường quan lộ.
Căn cứ vào các tiêu chuẩn trên, ta có thể thấy yếu tố “thân” được đưa lên hàng đầu. Người muốn làm quan phải có mặt mũi dễ nhìn, dáng vẻ khí khái. Lưu Dung năm xưa từng thuận lợi tiến vào chốn quan trường, ắt không thể là một người gù bẩm sinh.
Chứng minh từ các nhà sử học đã phác họa nên một Lưu Dung với ngoại hình khác xa so với hậu thế tưởng tượng.
Một số học giả khác còn khẳng định: việc Lưu Dung vượt qua được kỳ “đại khiêu” cũng đủ để chứng minh ông là người có dáng vóc bình thường.
Sau kỳ thi Hội, bộ Lại sẽ đích thân tổ chức thêm một phần thi có tên là “đại khiêu”. Phần thi này lấy tướng mạo làm đầu, nếu như thân thể có nửa điểm bất thường, hay như việc hai vai không bằng nhau, thí sinh sẽ dễ dàng bị đánh trượt.
Do vậy, có thể khẳng định dù Lưu Dung có tướng mạo không thuộc hàng xuất chúng, nhưng cũng không đến mức thân thể bị tật gù lưng như nhiều người đồn đại.
Cũng phải nối thêm rằng, biệt hiệu “Lưu gù” của ông không phải tự nhiên mà có. Sử sách ghi lại: Gia Khánh Hoàng đế là người khởi xướng cho biệt danh “Lưu gù” của Lưu Dung.
Khi Gia Khánh lên ngôi, vị quan họ Lưu này tuổi đã ngoài 80, lưng khó tránh khỏi bị còng. Do đó, hai chữ “Lưu gù” chỉ thích hợp hình dung về một Lưu Dung lớn tuổi, chứ không thể coi là từ ngữ chính xác để xây dựng hình tượng khái quát về vị quan này.
Trên thực tế, Lưu Dung là một người cao lớn với chiều cao gần chạm ngưỡng...2 mét!
Một số nguồn tư liệu khác còn khẳng định: Lưu Dung sinh thời vốn không phải là người thấp lùn, thậm chí còn sở hữu vóc dáng cao lớn, nhưng vì ham đọc sách đến nỗi lưng còng, nên mọi người mới gọi vui là “Lưu gù”.
Nữ sĩ Lưu Cẩm – con cháu của gia tộc họ Lưu từng cho biết: vào năm 1958, mộ của Lưu Dung và cha là Lưu Thống Huân vô tình bị khai quật.
Người dân địa phương khi ấy tận mắt nhìn thấy di cốt của ông đều khẳng định: “Xương chân đặc biệt dài, dựa vào khung xương có thể áng chừng chiều cao của Lưu Dung lên tới…1m90!”