Năm 1407, sau nhiều lần tiến công xâm lược, quân Minh đã hoàn thành công cuộc xâm chiếm Đại Việt. Triều đình nhà Minh đổi tên nước ta thành Giao Chỉ, chia làm 17 phủ, 5 châu. Từ đây, dân ta phải sống trong cảnh đô hộ trong gần 2 thập kỷ.
Giặc Minh và những tội ác "trời không dung, đất không tha"
Chỉ trong vòng 6 tháng kể từ khi đặt ách đô hộ, quân Minh đã cướp của nước ta 235.900 con voi, ngựa, trâu bò; 13.600.000 thạch thóc; 8.670 chiếc thuyền và vô số vàng bạc, châu báu đem về Trung Quốc.
Chính quyền đô hộ còn tăng thuế ruộng lên gấp 3 lần, đánh thuế mọi ngành nghề, cưỡng bức dân ta đi phu phen, lao dịch, dồn bắt nhân tài đem về nước. Thâm độc hơn, Minh triều còn ráo riết thi hành chính sách ngu dân, đồng hóa dân tộc.
Trong suốt 2 thập kỷ đô hộ nước ta, chính quyền nhà Minh đã thực hiện nhiều chính sách, biện pháp với những thủ đoạn tinh vi, trắng trợn nhằm xóa bỏ quá khứ đấu tranh, dựng nước và giữ nước bất khuất của dân tộc ta, hòng chiếm đóng vĩnh viễn Đại Việt.
Chính sách cai trị của Minh triều vô cùng dã man, bất nhân. Chúng triệt để cướp bóc, tàn bạo vơ vét. (Tranh: nguồn internet).
Chúng đốt sách, phá hủy các công trình kiến trúc, văn hóa, tuyên truyền, nhồi nhét những tư tưởng mê tín, bắt nhân dân Đại Việt ăn mặc và sinh hoạt theo phong tục tập quán của Hán Tộc.
Chưa dừng lại ở đó, chúng còn thực hiện chính sách chia rẽ dân tộc và đàn áp tàn bạo. Nhà Minh xóa bỏ quốc hiệu Đại Việt, đặt làm quận Giao Chỉ, thiết lập chính quyền đô hộ, coi lãnh thổ nước ta như một quận huyện của Trung Hoa.
Những tội ác chất chồng của Minh triều đối với nhân dân Đại Việt đã được Nguyễn Trãi tố cáo một cách đanh thép trong "Bình Ngô đại cáo":
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
[…]
Độc ác thay, trúc Lam Sơn không ghi hết tội,
Nhơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi."
Trong bối cảnh ấy, Lê Lợi đã đứng lên phất cờ khởi nghĩa tại Lam Sơn, chiến đấu can trường trong gần 10 năm để dành lại độc lập cho nhân dân Đại Việt.
"Tự mình hại mình", giặc Minh "cúp đuôi" chạy về nước
Năm 1427, cuộc xâm lược Đại Việt của Minh triều đứng trên bờ vực phá sản trước sự lớn mạnh của khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo.
Đối mặt với tình thế ấy, Minh Tuyên Tông quyết định phái Chinh Lỗ tướng quân Liễu Thăng (chủ tướng) và Thượng thư Bộ binh Lí Khánh (làm Tham tán Quân vụ) dẫn binh tới Đại Việt hòng đàn áp nghĩa quân của Lê Lợi.
Lúc bấy giờ, Đại Việt sau gần 20 năm chịu sự đô hộ của Minh triều, nay đang "trở mình" nhờ hào khí của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Sau gần 10 năm phất cờ, nghĩa quân của Lê Lợi ngày một lớn mạnh, khiến cho chính quyền đô hộ của Minh triều tại Đại Việt nhiều lần điêu đứng. (Tranh minh họa).
Năm 1426, ngay khi vừa lên kế vị, Minh Tuyên Tông đã phái Thành Sơn hầu Vương Thông suất lĩnh 10 vạn quân tiến vào Đại Việt hòng đàn áp nghĩa quân nhưng vẫn đại bại tại Tốt Động – Chúc Động.
Lần thất bại này đã khiến Vương Thông phải lui về Đông Quan cố thủ, cầu xin sự tiếp viện từ phía triều đình.
Sau đó, Tuyên Tông liền phái Liễu Thăng (danh tướng kỳ cựu của Minh triều từ thời Chu Đệ) thống lĩnh 7 vạn quân tiến sang lãnh thổ Đại Việt.
Đội quân Nam chinh lần này của Minh triều có thanh thế hết sức phô trương. Cầm đầu 7 vạn quân chủ lực là những "tên tuổi" cầm binh hàng đầu như Chủ tướng Liễu Thăng, Phó Tổng binh Lương Minh, Tham tán Lí Khánh, Tham tướng Thôi Tụ.
Bên cạnh đó, Minh triều còn cắt cử Kiều Quốc công Vân Nam là Mộc Thạnh cầm đầu 5 vạn quân hậu bị.
Đứng trước lực lượng lớn mạnh sở hữu tinh thần yêu nước bất khuất như nghĩa quân Lam Sơn đồng nghĩa với việc quân Minh phải chuẩn bị tinh thần đối mặt với một cuộc chiến sống còn.
Vậy nhưng, còn chưa vào tới lãnh thổ Đại Việt, đội quân này đã tự giết chính mình do những lục đục nội bộ. Nguyên nhân bắt nguồn từ việc Liễu Thăng muốn nhân cơ hội nam chinh lần này để chiếm lấy đất Việt, tự lập làm vương, trở thành chư hầu của triều đình.
Lí Khánh và Lương Minh đã hết lời khuyên can nhưng không thành, liền cấu kết với Kiều Quốc công Vân Nam là Mộc Thạnh hòng đoạt lại binh quyền từ tay Liễu Thăng.
Tuy nhiên, thân tín của Lí Khánh chưa kịp tới Vân Nam để báo tin cho Mộc Thạnh thì đã bị thủ hạ của Liễu Thăng "giết người diệt khẩu".
Lúc này, Liễu Thăng liền mật đàm cùng Thôi Tụ. Thôi Tụ hiến kế: "Phía nam từ trước tới nay vốn là nơi liên tục phát sinh ôn dịch. Chúng ta chỉ cần nghĩ cách khiến bọn chúng ‘chết vì bệnh dịch’ là có thể dễ dàng ăn nói với triều đình."
Cũng không rõ Thôi Tụ dùng quỷ kế gì, sau khi đến Đại Việt, Lí Khánh, Lương Minh lần lượt lâm bệnh nặng, việc quân chính buộc phải để Liễu Thăng toàn quyền quyết định.
Khi mới giao chiến với quân Lam Sơn, Liễu Thăng vì thắng được một vài trận mà đem lòng kiêu ngạo. Lí Khánh nhắc nhở đây rất có thể là kế "dụ địch" của Lê Lợi, nhưng Liễu Thăng bỏ ngoài tai, tiếp tục cho quân tiến sâu vào lãnh thổ Đại Việt.
Tới đầm lầy ở Chi Lăng, giặc Minh bị quân ta đánh bất ngờ. Binh lực của địch bị tiêu diệt gần hết, số tàn quân còn lại bỏ chạy về doanh trại, bản thân Liễu Thăng cũng bị vùi thây nơi chiến trường.
Trong trận Chi Lăng, quân ta đã chém đầu tướng Liễu Thăng. (Tranh: nguồn internet).
Khi tàn binh chạy về đại bản doanh cũng là lúc Phó Tổng binh Lương Minh qua đời vì bệnh. Chủ tướng và phó tướng đều bỏ mạng, Tham tán Lí Khánh nghe tin liền thổ huyết, không lâu sau cũng qua đời trong sợ hãi.
Mất đi thống lĩnh và tham mưu, tàn binh của địch giờ đây do Thôi Tụ cầm đầu, bị nghĩa quân vây khốn ở Xương Giang. Kết quả là 7 vạn quân chủ lực của Minh triều bị quân ta đánh tan, quân Minh đại bại.
Lúc này, Vương Thông đã rơi vào thế "tứ cố vô thân", phải cầu hòa cùng Lê Lợi. Cuối cùng, Tuyên Tông buộc phải hạ lệnh bãi binh, công nhận độc lập của Đại Việt.
Vậy mới thấy, ngay cả khi sở hữu lực lượng đông đảo, Minh triều vẫn thua đau trước nghĩa quân Lam Sơn vì chiến thuật, tinh thần, và hơn cả là thiếu đi sự đoàn kết.