Theo các chuyên gia quân sự Nga, việc thực hiện các chương trình hiện đại hóa lực lượng vũ trang của Trung Quốc đã mang lại kết quả. Giờ đây, quốc gia này đã có một trong những hệ thống phòng không và phòng thủ tên lửa tiên tiến nhất trên thế giới.
Tất nhiên là hệ thống phòng không của Trung Quốc thua kém Nga và Mỹ, nhưng rõ ràng có ưu thế đáng kể khi so với hầu hết các quốc gia khác trên thế giới.
Cơ sở sức mạnh chiến đấu của lực lượng tên lửa phòng không của Trung Quốc - vốn là một phần trong cấu trúc không quân nước này - chính là các hệ thống tên lửa phòng không của Liên Xô/Nga và do họ tự chế tạo.
Đầu tiên là những tổ hợp S-300PMU-1/2 được cung cấp vào những năm 1990 - 2000. Thứ hai là các tổ hợp S-400 vừa được bàn giao gần đây nhưng với quy mô nhỏ hơn nhiều khi đặt cạnh hợp đồng S-300PMU.
Thứ ba là những hệ thống do họ tự nghiên cứu chế tạo và đang khẳng định được tính năng kỹ chiến thuật của mình.
Hiện tại Trung Quốc đang dần thay thế hệ thống S-300PMU bằng sản phẩm do chính họ sản xuất. Chẳng hạn ở vùng lân cận Thượng Hải, thay vì tiểu đoàn S-300PMU, sư đoàn HQ-9A đã được triển khai.
Theo số liệu của tình báo Hoa Kỳ, vào năm 2018, quân đội Trung Quốc (PLA) đã có 16 sư đoàn trang bị hệ thống tên lửa phòng không HQ-9 và HQ-9A do họ tự chế tạo.
Tầm bắn tối đa của hệ thống phòng không HQ-9 là 200 km, chiều cao đánh chặn trong khoảng 500 m đến 30 km, thời gian được triển khai chỉ trong vòng 6 phút.
Điều thú vị là HQ-9 vay mượn rất nhiều từ S-300PMU. Cụ thể, các chuyên gia Mỹ cho rằng radar đa năng HT-233 có một số điểm tương đồng với radar AN/MPQ-53, được sử dụng trong hệ thống phòng không Patriot.
Rõ ràng Trung Quốc đã tận dụng tốt nhất mọi thiết kế trước đó từ cả Liên Xô và Nga, thậm chí vay mượn từ cả tên lửa phòng không của Mỹ.
Đại diện quân đội Trung Quốc khẳng định rằng các hệ thống phòng không HQ-9C/B không thua kém so với S-300PMU-2 Favorit của Nga về các đặc điểm chính yếu.
Ngoài hệ thống phòng không HQ-9, PLA còn được trang bị tổ hợp HQ-16A dựa trên thiết kế Buk của Nga. Bên cạnh đó, phiên bản sao chép Pantsir-S1 được gọi là FK-1000.
Tại Trung Quốc, các lực lượng kỹ thuật vô tuyến cũng là một phần của không quân PLA, được trang bị radar YLC-2 và YLC-18, trong đó radar YLC-2 tạo thành nền tảng của họ vào đầu những năm 2000.
Khí tài này đã trải qua quá trình hiện đại hóa, sau đó nó đã nhận được bộ xử lý tín hiệu số mới, có thể phát hiện các mục tiêu trên không của đối phương, bao gồm tàng hình ở khoảng cách 200 km. Ngoài radar, PLA còn có khoảng 20 máy bay AWACS.
Trọng tâm chính của phòng không Trung Quốc là bảo vệ các thành phố lớn nhất của đất nước như Bắc Kinh, Thượng Hải và Thiên Tân, các khu công nghiệp và cơ sở hạ tầng ở tỉnh Hà Bắc cũng như ở đồng bằng sông Dương Tử và Châu Giang.
Có một thời, tại Trung Quốc, do sự phát triển yếu của các hệ thống phòng không trong những năm 1950 và 1970, họ rất dễ bị tấn công từ phía bắc. Do đó, nhiệm vụ chính là cung cấp sự bảo vệ khỏi các cuộc tấn công từ Liên Xô.
Sau sự sụp đổ của Liên Xô và sự thay đổi trong tình hình chính trị toàn cầu, Mỹ đã trở thành đối thủ số 1 của Trung Quốc, và các tuyến phòng thủ chính đã thay đổi.
Ngày nay các cuộc tấn công được dự kiến từ các căn cứ của Mỹ ở Nhật Bản và Hàn Quốc cũng như trên các tàu chiến từ Thái Bình Dương. Các khu vực gần eo biển Đài Loan cũng được coi là khu vực quan trọng chiến lược.
Ưu điểm không thể nghi ngờ của phòng không Trung Quốc là nó liên tục được hiện đại hóa. Bắc Kinh đầu tư rất nhiều vào việc cải thiện các hệ thống phòng không hiện có và phát triển, đánh giá hoàn hảo nhu cầu của họ trong điều kiện hiện đại.
Tuy nhiên điểm yếu hiện nay của vũ khí phòng không Trung Quốc là chưa trải qua thực chiến, vì vậy những lời chỉ trích của họ đối với hệ thống phòng không Nga tại Syria tỏ ra rất thiếu căn cứ.