Trong tấm poster mất tích, Yukari Yokoyama (4 tuổi) nhìn thẳng vào camera, miệng nhoẻn cười.
Bức hình ấy được chụp cách đây hơn 2 thập kỷ, là một trong những hình ảnh cuối cùng bố mẹ Yukari chụp được trước khi cô bé biến mất vào tháng 7/1996 tại Ota - cách Tokyo 100km về phía Bắc.
Hiện tại, cảnh sát quận Gunma đang thực hiện những lời kêu gọi cuối cùng, dành cho bất kỳ ai có manh mối hoặc nhìn thấy Yukari ở thời điểm sau khi cô bé lạc khỏi cha trong một cửa hàng chơi pachinko.
Mọi thông tin dù là nhỏ nhất cũng có thể mang đến chìa khóa giải đáp sự mất tích của cô bé, và thậm chí là để phá giải 4 vụ sát hại trẻ em gái rải rác trong 17 năm trước đó nữa.
Camera ghi lại nhân dạng của nghi phạm bí ẩn
Nhà chức trách tin rằng Yukari là nạn nhân cuối cùng của tên sát nhân hàng loạt chuyên rình mò các quận phía bắc Tokyo.
Thi thể của 4 bé gái đã được tìm thấy, chỉ mình Yukari vẫn không thấy tăm hơi. Trên thực tế, cảnh sát Nhật hiện vẫn đang đánh giá đây là một vụ mất tích, nhằm đeo bám hy vọng rằng Yukari vẫn còn sống.
Thậm chí, họ còn cử chuyên gia phác họa để biết cô bé sẽ trông như thế nào vào lúc này - ở tuổi 18.
Những tờ rơi treo phần thưởng 6 triệu yên (khoảng hơn 1,2 tỉ đồng tiền Việt) dành cho ai tìm ra Yukari hoặc có manh mối liên quan đến hung thủ được phát khắp Ota. Nhưng 20 năm trôi qua, mọi chuyện dần trở nên vô nghĩa.
Các chuyên gia mất dần hy vọng, không còn tin rằng như vậy là đủ để truy bắt một trong những tên sát nhân hàng loạt khét tiếng nhất Nhật Bản nữa.
Vụ việc thậm chí còn trở thành một vết nhơ với lực lượng hành pháp Nhật Bản thời bấy giờ, khi cảnh sát cưỡng ép một người đàn ông tật nguyền phải nhận tội sát hại 4 bé gái vào năm 1991.
Người đàn ông khốn khổ phải chịu án tù 18 năm, chỉ được tha bổng sau khi một nhà báo địa phương chỉ ra những lỗ hổng trong quá trình buộc tội.
"Tôi sợ rằng sẽ rất khó để xác định nghi phạm vào lúc này," - trích lời Shinichi Ishizuka, giáo sư ngành luật và là giám đốc trung tâm nghiên cứu tội phạm của ĐH Ryukoku (Kyoto, Nhật Bản).
"Thời gian đã trôi qua quá lâu, đến nỗi người ta còn chẳng nhớ bản thân đã làm gì lúc đó. Có quá nhiều câu hỏi chưa được giải đáp, cả về quá trình điều tra lẫn bằng chứng thu được."
Kẻ giết người nhắm vào trẻ em gái và vết nhơ lớn nhất với cảnh sát Nhật Bản
Nạn nhân đầu tiên trong vụ án mạng hàng loạt này là Maya Fukushima - 5 tuổi. Cô bé mất tích khi đang dạo chơi ở một ngôi miếu gần nhà tại thành phố Ashikaga (cách Ota 10km) hồi tháng 8/1979.
Thi thể cô bé được tìm thấy trong một chiếc túi xách sau đó 6 ngày gần sông Watarase, không mảnh vải che thân.
Tháng 11/1984, bé Yumi Hasebe (5 tuổi) mất tích ở một tiệm chơi pachinko. 16 tháng sau, thi thể cô bé được tìm thấy trên một cánh đồng, chỉ cách nhà chưa đầy 2km.
Tháng 9/1987, kẻ thủ ác ra tay lần 3. Nạn nhân lần này là Tomoko Oosawa (8 tuổi), mất tích một thời gian ngắn sau khi rời nhà tại Ota. 14 tháng sau, thi thể cô bé được tìm thấy trên sông Tone.
Năm 1990, Mami Matsuda (4 tuổi) mất tích cũng từ một tiệm pachinko, sau đó được tìm thấy bên bờ sông Wataráe.
Và đến tháng 7/1996, đến lượt Yukari Yokoyama mất tích, với những tình tiết tương tự như 4 vụ án trước đó.
Tờ rơi treo thưởng dành cho ai tìm thấy cô bé Yukari
Nhưng trước Yukari, vụ án giết cô bé Matsuda năm 1990 đã khiến công luận chú ý cực độ, gây áp lực lớn cho cảnh sát.
Sau đó 1 năm, cảnh sát thông báo bắt giữ Toshikazu Sugaya. Người đàn ông này là lái xe bus cho trường học tại địa phương, và là một người mắc chứng thiểu năng trí tuệ.
Bản án dành cho Sugaya dựa vào lời thú nhận của ông và các bằng chứng ADN tại hiện trường. Sugaya cũng thú nhận mình là hung thủ của 2 vụ án trước, nhưng không bị kết án.
Tuy nhiên đến năm 2007, nhà báo Kiyoshi Shimizu bắt đầu điều tra lại sự việc và phát hiện ra rằng các bằng chứng ADN dùng để buộc tội Sugaya thực chất rất mơ hồ.
Ông thuyết phục nhà chức trách xét nghiệm lại các mẫu thu được bằng công nghệ hiện đại, để rồi nhận định được Sugaya không phải hung thủ thực sự.
Các tình tiết khác trong quá trình tố tụng cũng có vấn đề, khi không có tình tiết giảm nhẹ được đưa ra cho Sugaya, cũng như mốc thời gian trong lời thú tội của ông là không thể xảy ra.
Rốt cục, Sugaya được thả vào tháng 5/2009, sau 18 năm chịu tù oan. Ông cho biết mình nhận tội vì bị bạo hành thể chất bởi Fumio Hashimoto - viên cảnh sát phụ trách điều tra năm ấy.
Trong phiên tòa năm 2010, Sugaya được minh oan hoàn toàn, trở thành vết nhơ khó gột rửa dành cho lực lượng hành pháp Nhật Bản khi ấy.
Bóng ma 40 năm chưa có lời giải
Cũng trong năm 2010, Shimizu báo cáo có một nghi phạm mới được xác nhận, với mẫu ADN trùng khớp trong vụ án Matsuda năm 1990.
Ngoài ra, có một đoạn video an ninh ghi lại cảnh người này bắt chuyện cùng các bé gái trong trung tâm thương mại.
Thời hạn vụ án kéo dài 25 năm, nên khi đó hoàn toàn có căn cứ để tiến hành điều tra lại. Tuy nhiên theo báo cáo của Shimizu, cảnh sát đã từ chối tiến hành bắt giữ.
Đặc biệt, họ cũng không giao lại chiếc áo có vết tinh trùng của hung thủ cho gia đình nạn nhân, khiến việc xét nghiệm độc lập không thể được thực hiện.
Các tiệm pachinko dường như là nơi ưa thích để hung thủ ra tay
Theo Shimizu, ông tin rằng cảnh sát đã mắc lỗi trong quá trình xét nghiệm ADN nhưng không thể thừa nhận điều đó.
Bởi lẽ, quy trình xét nghiệm này cũng được áp dụng để kết án Michitoshi Kuma, về tội danh sát hại 2 bé gái ở thành phố Iizuka năm 1992.
Kuma đã bị treo cổ tại trại giam Fukuoka hồi tháng 10/2008. Người đàn ông 70 tuổi khẳng định mình vô tội, cho đến tận phút cuối cùng. Vậy nên nếu quy trình xét nghiệm thực sự mắc lỗi, thì vụ của Kuma cũng sẽ gây ra những hoài nghi.
"Có những vấn đề hết sức nghiêm trọng liên quan đến các bằng chứng ADN dùng để buộc tội Sugaya, chưa tính đến chuyện ép cung.
Đây là một trong những lý do vì sao quá trình thẩm vấn của cảnh sát hiện nay đều phải được ghi lại," - trích lời Ishizuka.
"Tôi nghĩ các tiêu chuẩn hiện tại đã cao hơn. Bằng chứng ADN là rất quan trọng với các vụ án, và cảnh sát không thể chỉ dựa vào lời thú tội nữa. Xã hội cần những bằng chứng chính xác tuyệt đối."
Và dù thế nào đi nữa, kẻ sát nhân hàng loạt kia vẫn đang nhởn nhơ.
Trên các tờ rơi phát ở Ota, bên cạnh hình ảnh cô bé Yukari còn có 3 tấm hình nữa. Ảnh đen trắng, mờ nhạt, chụp lại từ camera an ninh của quán pachinko trước khi cô bé mất tích.
Nó cho thấy một người đàn ông mặc chiếc quần thụng tối màu, áo thun trắng bên trong một chiếc áo khoác ngoài, đeo kính râm và đội một chiếc mũ lưỡi trai.
Một tấm ảnh khác cho thấy y đang hút thuốc, cao khoảng 1m58. Tấm ảnh còn lại, y đang nói chuyện với Yukari.
Và danh tính của y? Vẫn là một bóng ma chưa thể xác định.