Cơ hội “nghìn năm có một” để tham gia vào chuỗi giá trị ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, trong xu hướng đa dạng hóa chuỗi cung ứng và diễn biến phức tạp về địa chính trị trên thế giới, để tận dụng nguồn nhân lực, các doanh nghiệp ngành công nghiệp bán dẫn đã và đang chuyển hướng đến các nước khu vực châu Á để đặt trụ sở, nhà máy.
Việt Nam có một số lợi thế chính để khẳng định mình đã sẵn sàng cho ngành công nghiệp bán dẫn, đó là: Chúng ta đã quyết tâm chính trị cao từ Trung ương đến địa phương; Môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi thu hút được nhiều doanh nghiệp FDI lớn trong lĩnh vực điện tử. Hiện đã có hơn 50 doanh nghiệp trong ngành công nghiệp bán dẫn đã hoạt động tại Việt Nam như Intel, Amkor, Hana Micron (đóng gói, kiểm thử); Ampere, Marvell, Cadence, Renesas, Synopsys, Qorvo (thiết kế); Lam Research, Coherent (sản xuất thiết bị)...; Chúng ta có lực lượng lao động có chất lượng, chi phí hợp lý đã và đang hoạt động trong ngành công nghiệp điện tử dễ dàng chuyển đổi sang, với hơn 50% dân số dưới 30 tuổi (thời kỳ dân số vàng) và khoảng 1,8 triệu sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng hàng năm; Đồng thời Việt Nam đã nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với hầu hết các nước có ngành công nghiệp bán dẫn phát triển.
Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện nêu rõ 2 nội dung hợp tác đột phá là đổi mới sáng tạo và công nghệ cao trong đó có ngành công nghiệp bán dẫn. Đặc biệt, Việt Nam là một trong số ít quốc gia mà Hoa Kỳ ký Biên bản ghi nhớ hợp tác nhằm phát triển hệ sinh thái ngành công nghiệp bán dẫn, trong đó nhấn mạnh đến việc hợp tác phát triển nguồn nhân lực cho ngành.
Với bối cảnh và lợi thế trên, Việt Nam đang có cơ hội "nghìn năm có một" để tham gia vào chuỗi giá trị ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu. Trong các cuộc làm việc cấp cao của Thủ tướng Chính phủ với các đối tác Hoa Kỳ vừa qua, phía Hoa Kỳ đều nhấn mạnh, để nắm bắt và hiện thực hoá được cơ hội này, Việt Nam cần triển khai nhanh trong thời gian không nên quá 24 tháng. Một là cần hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù đảm bảo cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực; Hai là đồng bộ hạ tầng điện, nước, giao thông, cáp quang, công nghệ thông tin; và ba là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành.
Đề án "Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2045" được xây dựng vào thời điểm này là hết sức có ý nghĩa và kịp thời, thể hiện tầm nhìn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực cho ngành bán dẫn. Việt Nam cũng là quốc gia có bước đi nhanh hơn, bài bản hơn so với các quốc gia đang phát triển trong khu vực với việc đưa nội dung phát triển nguồn nhân lực thành một đề án tổng thể để thực hiện đầy đủ, toàn diện và hiệu quả.
Cốt lõi để phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn
Trong Hội nghị hôm nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhấn mạnh một số nội dung cốt lõi của Đề án như sau:
Về cách tiếp cận, trong quá trình xây dựng Đề án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp cận theo phương diện đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phục vụ tất cả các công đoạn của chuỗi giá trị ngành công nghiệp bán dẫn. Sản phẩm của chương trình đào tạo là đội ngũ kỹ sư chất lượng cao tốt nghiệp đại học (không bao gồm hệ cao đẳng) từ các ngành gần, ngành phù hợp, ngành đúng với công nghiệp bán dẫn. Để triển khai Đề án hiệu quả cần có sự tham gia, vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu, hỗ trợ của quốc tế, các chuyên gia trong và ngoài nước.
Về mục tiêu, Đề án xác định đến năm 2030, kỹ sư Việt Nam tham gia sâu vào quy trình thiết kế, công đoạn đóng gói và kiểm thử, làm chủ được một phần công nghệ đóng gói và kiểm thử; từng bước nắm bắt được công nghệ trong công đoạn sản xuất. Đào tạo được 50.000 kỹ sư phục vụ ngành công nghiệp bán dẫn trong tất cả các công đoạn của chuỗi giá trị. Trong đó có 15.000 kỹ sư thiết kế vi mạch bán dẫn và 35.000 kỹ sư trong lĩnh vực khác của ngành công nghiệp bán dẫn; tối thiểu 5.000 kỹ sư trong số đó có chuyên môn sâu về trí tuệ nhân tạo. Đào tạo được khoảng 1.300 giảng viên có trình độ quốc tế.
Theo dự tính trong Đề án, để thực hiện mục tiêu đề ra, tổng mức kinh phí thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của Đề án đến năm 2030 khoảng 26.000 tỷ đồng (hơn 1 tỷ USD), trong đó ngân sách nhà nước khoảng 17.000 tỷ đồng và nguồn xã hội hóa khoảng 9.000 tỷ đồng.
Mức kinh phí này được tính toán dựa trên mức chi phí trang thiết bị, nhân lực theo định mức và thông lệ trên thế giới, phân chia theo các hạng mục công việc cụ thể của từng nhóm nhiệm vụ, giải pháp và tổ chức thực hiện.
Để thực hiện được mục tiêu của Đề án và có cơ sở xây dựng hệ thống các giải pháp, nhiệm vụ toàn diện, khả thi để triển khai Đề án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng cần quán triệt và thống nhất một số quan điểm chỉ đạo sau:
Thứ nhất, phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp bán dẫn phải phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam và xu hướng, bối cảnh phát triển kinh tế thế giới; khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nghiệp tham gia đào tạo, tuyển dụng nhân sự chất lượng cao trong ngành công nghiệp bán dẫn. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là ưu tiên hàng đầu để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn ở Việt Nam.
Thứ hai, có cơ chế chính sách, giải pháp đột phá, thuận lợi để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành; góp phần tạo lợi thế cạnh tranh cho Việt Nam trong công cuộc phát triển kinh tế bền vững và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tham gia vào chuỗi giá trị ngành công nghiệp bán dẫn.
Thứ ba, đầu tư, hỗ trợ ban đầu của Nhà nước là yếu tố quan trọng cho sự thành công của ngành công nghiệp bán dẫn và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành. Nhà nước xem xét đảm bảo nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp thuộc phạm vi Đề án, khuyến khích các hình thức hợp tác công - tư, huy động các nguồn lực xã hội hóa để xây dựng quỹ học bổng, đầu tư trang thiết bị, hạ tầng cần thiết, các trung tâm đào tạo, nghiên cứu và phát triển, chuyển giao công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp vi mạch bán dẫn tại các viện nghiên cứu, trung tâm đổi mới sáng tạo, trường đại học đào tạo ngành công nghiệp bán dẫn.
Thứ tư, đào tạo phải dựa trên việc hợp tác 3 bên Nhà nước - Viện nghiên cứu, trường đại học - Doanh nghiệp. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để nâng cao chất lượng đào tạo. Gắn việc học đi đôi với thực hành và đảm bảo đầu ra cho các học viên có thể làm việc cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nhà nước đóng vai trò dẫn dắt; viện -trường đóng vai trò trung tâm của quá trình đào tạo; doanh nghiệp đóng vai trò đồng hành, hỗ trợ trong quá trình xây dựng giáo án, đào tạo, bố trí thực tập và đảm bảo đầu ra.
Trên cơ sở đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Đề án.
Một là đào tạo giảng viên, sinh viên hệ chính quy; đào tạo nhân lực trình độ sau đại học; đào tạo hệ ngắn hạn, chuyển tiếp; khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp tham gia đào tạo;
Hai là đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển
Ba là đầu tư cơ sở vật chất và hạ tầng công nghệ phục vụ đào tạo;
Bốn là thu hút chuyên gia, nhân tài;
Năm là tạo đầu ra cho nguồn nhân lực, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp;
Sáu là xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù cho đào tạo nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn;
Bảy là các giải pháp về hợp tác quốc tế, truyền thông và hỗ trợ triển khai khác.