LTS: Để thay đổi những tập tục lạc hậu của một số đồng bào dân tộc thiểu số, là hành trình đầy nỗ lực và gian khó, của các cấp chính quyền.
Kể lại câu chuyện rúng động ở Quảng Nam mấy chục năm về trước, để thấy ngày hôm nay, những vùng sâu, xa đã có những bước tiến dài như thế nào cả về vật chất lẫn tinh thần.
Vụ án rúng động trên đã khiến nhiều người nhớ lại một tập tục kinh hãi của người Cơ Tu trước cách mạng ở vùng đất này, tập tục “trả nợ đầu”. Đến bây giờ, nhắc lại tập tục này, nhiều người từng chứng kiến vẫn còn khiếp sợ.
Đời không có hậu
Người già ở Tà Pơơ kể lại, trước chính quyền cách mạng được thành lập ở đây, những người Cơ Tu vẫn lao vào những cuộc săn máu vô cùng tàn độc. Những cuộc săn máu ấy đã lấy đi không biết bao nhiêu mạng người, đẩy nhiều làng Cơ Tu vào vòng khốn đốn.
Từ Đà Nẵng, theo Quốc lộ 14B, hướng lên Tây Nguyên, chúng tôi tìm đường về xã Tà Pơơ. Nam Giang trước đây là huyện Giằng, đường đi lại vô cùng khó khăn.
Ngày trước, khi chưa tách thành hai tỉnh Quảng Nam và Đà Nẵng thì ai lên công tác tại huyện Giằng, huyện Hiên (Đông Giang và Tây Giang bây giờ) thì chẳng khác nào “đi đày”. Đường lên huyện đã khó, đường vào xã còn khó gấp bội.
Ông Kriêng Diệu, Trưởng Công an xã Tà Pơơ (bên phải) kể lại vụ thảm án khiến 18 phu vàng thiệt mạng.
Con đường dẫn vào xã Tà Pơơ được mở từ năm 1986 và cũng chính bởi thảm án kinh hãi khiến 18 người bỏ mạng mà con đường phải dừng lại một thời gian.
Vụ án kinh hoàng trên khiến những công nhân làm đường sợ hãi. Họ không dám ở lại Tà Pơơ mà tức tốc trở về đồng bằng.
Tà Pơơ bây giờ đã đổi thay rất nhiều. Trung tâm xã đã có những ngôi nhà kiên cố, những ngôi nhà xây theo kiểu đồng bằng. Những ngôi nhà hình mu rùa, kiểu nhà đặc trưng của người Cơ Tu không còn nhiều nữa.
Theo thân Kriêng Diệu, Trưởng Công an xã Tà Pơơ, chúng tôi tìm đến nhà ông A Lung Tría ở thôn Vinh, người đã được chứng kiến nhiều mùa săn máu và cũng chính là “nhân vật chính” của vụ thảm sát 18 phu vàng trên.
Rất may cho chúng tôi, ông Tría vừa đi chữa bệnh ở trung tâm huyện về.
Năm nay, đã sống qua 90 mùa rẫy, ông Tría là người già nhất bản. Nước da vẫn hồng hào, cái chân vẫn bước vững chãi nhưng không biết bị bệnh gì mà nhiều ngày nay cái bụng ông đau ê ẩm, uống thuốc kiểu gì cũng không đỡ.
Bởi đau đớn, không muốn ai làm phiền, ông Tría không ở nhà chính mà một mình nằm co ro trong căn chòi bé tí tẹo ngay trước nhà với túi gạo đặt trên bụng. Ông bảo, đặt gạo lên bụng ông thấy đỡ đau hơn. Có thể đó là cách chữa bệnh của người Cơ Tu ở đất này.
Trong căn chòi chật trội, nhắc lại chuyện xưa, nét mặt ông Tría thoáng chút hãi hùng. Ông bảo, đời ông lắm nỗi thăng trầm và cuối đời thì không được đẹp giống như bộ phim trên ti vi không có cái kết ngọt ngào.
Nỗi thăng trầm nhiều bi kịch ấy khởi nguồi từ tập tục “trả nợ đầu” đầy kinh hãi.
Ở Tà Pơơ hiếm gia đình nào lại danh giá như gia đình ông thuở trước. Ông Tría theo cách mạng từ sớm. Ông làm liên lạc, rồi làm dân quân, đến năm 1960 đã làm phó bí thư xã.
Sau giải phóng, ông làm bí thư xã và đến khi vụ thảm án kinh hoàng trên xảy ra thì ông vừa rời cương vị Phó Chủ tịch MTTQ huyện Giằng (Nam Giang bây giờ) để nghỉ hưu được vài tháng.
Như những đồng bào Cơ Tu khác, ông Tría có nhiều con. Tuy 9 lần sinh nở nhưng đến giờ ông Tría chỉ còn một người con duy nhất. Ông bảo, thần linh không ưng cái bụng, không thương nên không muốn các con ông ở với ông nên lần lượt tìm đến bắt đi.
Có lẽ, cũng bởi nỗi sợ hãi mơ hồ ấy mà khi người con trai thứ ba, niềm hy vọng của cả gia đình là anh A Lung Nờ, khi đó đang làm giáo viên bị sát hại dã man đã khiến ông đi đến quyết định “đòi nợ đầu” mà đến giờ ông vẫn còn dày vò, ân hận.
Đòi nợ đầu, hủ tục tàn độc
Ông Tría kể, khi cách mạng chưa về, người Cơ Tu ở dưới những tán rừng Trường Sơn này như sống trong hoang dã. Cai trị, thực dân Pháp cũng đặt đồn bốt ở đất này.
Người Cơ Tu khi ấy sống khép kín, lương thực thực phẩm chủ yếu là do săn bắn và làm rẫy. Thỉnh thoảng các lái buôn người dưới đồng bằng ngược sông Bung lên mang theo muối, dầu, công cụ sản xuất, vũ khí để đổi lấy thóc, da thịt thú rừng.
Cạnh các bản làng của người Cơ Tu có người Ve, người Giẻ Triêng. Bởi chưa có chính quyền nên ngay cả các bản làng của người Cơ Tu cũng không đoàn kết như bây giờ. Mỗi làng là một thế giới riêng, một “chiến lũy” riêng và dường như là bất khả xâm phạm.
Ông Tría bảo, nguyên nhân của sự cô lập ấy chính là hệ quả tàn khốc của hủ tục “trả nợ đầu”. Theo ông Tría, quan niệm lạc hậu của người Cơ Tu, máu như một sợi dây liên kết giữa người với thần linh.
Muốn thần linh chứng giám, muốn mùa màng tốt tươi, muốn tai ương bị đẩy lùi thì phải dùng máu để tế thần. Bởi vậy, cứ khi dân làng gặp biến cố hay trước những quyết định lớn lao, người Cơ Tu lại lên đường săn máu.
Hủ tục tàn độc này khiến nhiều bản làng ở đây có những những mối thù truyền kiếp. Người làng này “lấy đầu người” của người làng kia và ngược lại.
Ông Tría bảo, khi trong làng có người bị giết hại, bị lấy đầu thì kiểu gì cũng phải trả thù.Quan niệm dã man, vô pháp luật ấy đã đem đến những hậu quả khôn lường.
Vụ án tàn độc
Vào khoảng năm 1944 - 1945, những “giặc mùa” ở một bản làng thuộc xã Đắk Ring, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum, đã gây ra một thảm án kinh hoàng.
Ông Tría kể, ngày đó, người dân bản làng ông cũng như nhiều bản làng khác có giao thương với những người ở Đắk Ring. Những người ở bản làng ấy thường mang những miếng đá đánh lửa sang các bản làng bên này bán.
Một lần đến làng ông, những người bán đá lửa đó đã được dân làng ông dặn rằng chuyến sau phải mang nhiều hàng hơn nữa, mang bao nhiêu sẽ mua hết bấy nhiêu.
Nhớ lời dặn ấy, mấy tháng sau những thương lái đó đã gùi rất nhiều đá đánh lửa tới. Tuy nhiên, dân làng ông lại khước từ, không mua hết.
“Không biết có phải do tức tối vì không bán được hết đá hay vì lý do nợ máu trước đây mà họ đã giết người vô cùng tàn ác”, ông Tría nhớ lại. Theo ông Tría thì không chỉ có những người buôn đá ấy mà cả những người trong làng đó đã tìm đến làng ông truy sát.
Ông Tría bảo, vụ án đó đã khiến hơn 30 người làng ông và mấy làng lân cận thiệt mạng. Và, cũng bởi sợ hãi trước sự tàn ác của giặc mùa mà nhiều bản làng đã phải tứ tán, vào rừng hoang sống đời ẩn dật.
Hủ tục "đòi nợ đầu" từng ám ảnh những người Cơ Tu như ông Tría
Ông Tría kể, sau vụ thảm sát kinh hãi trên, nhiều cán bộ ở dưới xuôi đã có mặt tại địa phương để khuyên giải đồng bào. Họ đã nhiều lần qua lại để vận động mọi người quên đi mối “nợ máu” đó để cùng chung sống trong hòa bình, đoàn kết.
“Cán bộ nói nhiều ngày lắm, nhưng nhiều người cũng không chịu nghe đâu. Họ bảo, làm khác đi không được”, ông Tría nhớ lại.
Theo ông Tría, nhờ sự kiên trì vận động của cán bộ, rồi dân làng bên kia phải nộp phạt nhiều con trâu, nhiều lợn, nhiều dê để các làng cúng Giàng, cúng thần linh thì mối thù ấy mới tạm thời nguôi lắng.
“Sau này, dân làng theo cách mạng rồi, có cán bộ dưới xuôi lên rồi thì những mùa săn máu trên không còn nữa. Người Cơ Tu đã không còn lấy máu người để tế lễ thần linh nữa. Cần thần linh phù trợ thì chỉ làm lễ đâm trâu thôi”, ông Tría trầm ngâm.
Theo cách mạng, ông Tría là một trong những cán bộ cốt cán của người Cơ Tu ở vùng đất này. Bởi được giác ngộ nên ông cũng là người đi tiên phong trong việc cùng dân làng xóa bỏ những tập tục lạc hậu, trong đó có tục “trả nợ đầu” kinh hãi.
Tuy nhiên, tất thảy những thứ tốt đẹp đó đã bị hắt xuống con sông Bung ngầu đỏ bởi một vụ trọng án kinh hoàng mà chính ông là người trong cuộc.
(Còn nữa)