Tàu ngầm mở đường
Tháng 07/2014, Chính quyền của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã thông qua “ba nguyên tắc chuyển giao thiết bị và công nghệ quốc phòng”, trong đó cho phép Nhật Bản xuất khẩu vũ khí miễn là các điều kiện nhất định của Nhật Bản phải được đáp ứng.
Với chính sách xuất khẩu vũ khí mới, Nhật Bản đã ký kết hai thỏa thuận quan trọng.
Thỏa thuận đầu tiên là cung cấp các bộ phận tên lửa đất đối không cho Mỹ và thỏa thuận thứ hai là tiến hành nghiên cứu chung với Anh về tên lửa không đối không.
Tuy nhiên, tờ "Diễn đàn Đông Á" lại cho rằng thỏa thuận về tàu ngầm với Australia sẽ làm lu mờ hai thỏa thuận trên cả về quy mô lẫn ý nghĩa của nó.
Mặc dù chính phủ Australia đang cân nhắc lựa chọn đối tác, nhưng có vẻ như tàu ngầm lớp Soryu của Nhật Bản là ứng cử viên sáng giá nhất để thay thế tàu ngầm lớp Collins cũ kỹ của Australia.
Triển vọng hợp tác với Nhật Bản vẫn rất lớn khi các công ty Australia “không có khả năng tự chế tạo tàu ngầm”.
Tàu ngầm lớp Soryu của Nhật Bản
Đầu tháng 1/2015, báo chí Nhật Bản đưa tin Bộ Quốc phòng (MOD) đã đề xuất phát triển và sản xuất chung tàu ngầm với Australia.
Thay vì xuất khẩu tàu ngầm Soryu đã hoàn thiện, Nhật Bản đề nghị hợp tác phát triển công nghệ mới cho vật liệu hấp thụ sóng âm thanh và thép đặc biệt mà có thể được sử dụng để sản xuất vỏ tàu.
Nhật Bản sẽ chịu trách nhiệm sản xuất các bộ phận chính của thân tàu và lắp ráp tàu ngầm, trong khi Australia sẽ chịu trách nhiệm sản xuất một số bộ phận cũng như lắp ráp khâu cuối cùng và bảo trì.
Một quan chức MOD Nhật Bản cho rằng việc lắp ráp tàu ngầm tại Australia sẽ dẫn đến chi phí cao hơn và có thể làm ảnh hưởng đến chất lượng cũng như sự an toàn của sản phẩm.
Một số ý kiến cho rằng Nhật Bản nên thận trọng chuyển giao công nghệ tàu ngầm cho Australia vì thông tin về tàu ngầm được xem là “thông tin nhạy cảm nhất trong số tất cả các loại thông tin nhạy cảm”.
Vì lý do này, quân đội Nhật Bản, và đặc biệt là Lực lượng Phòng vệ Biển (MSDF) - nơi mà sự hợp tác của đơn vị này là rất cần thiết nếu thực hiện thỏa thuận - sẽ giữ lại những bí mật nhất định.
Nhật Bản và Mỹ chia sẻ một số thông tin về tàu ngầm nhưng không chia sẻ vị trí lắp đặt hoặc khả năng của mỗi tàu ngầm.
Nhiều lựa chọn
Ngoài khả năng xuất khẩu 12 chiếc tàu ngầm cho Australia, Nhật Bản cũng đang có cơ hội bán 6 chiếc tàu cùng loại cho Ấn Độ.
Tờ "Thời báo Ấn Độ" cho biết chính phủ của Thủ tướng Narendra Modi đã đặt vấn đề với phía Nhật Bản về việc này.
Theo kế hoạch, Ấn Độ sẽ mua 6 tàu ngầm diesel-điện tiên tiến, trị giá ít nhất là 8 tỷ USD.
Các tập đoàn DCNS của Pháp, HDW của Đức, Rosoboronexport của Nga và Navantia của Tây Ban Nha đều đang cạnh tranh để giành được hợp đồng này.
Đề nghị của Ấn Độ được đưa ra vào thời điểm khi chính phủ của Thủ tướng Modi và chính phủ của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đang mong muốn tăng cường quan hệ.
Theo tờ báo Ấn Độ, Tokyo đặc biệt quan tâm đến việc thâm nhập thị trường tàu ngầm toàn cầu vốn đang bị các nước như Nga, Pháp và Đức chi phối.
Các nhà phân tích quân sự cho rằng tàu ngầm lớp Soryu của Tokyo có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ với các loại tàu tương tự của Nga, Pháp và Đức.
Theo đó: "Với lượng choán nước 4.200 tấn, tàu ngầm lớp Soryu có kích thước lớn hơn nhiều so với tàu Type 214 của Đức, tàu Scorpene của Pháp hoặc tàu Kilo cải tiến của Nga, và có thể mang được nhiều vũ khí hơn.
Kích thước này cũng làm cho chúng chạy êm hơn và có tầm hoạt động lớn hơn các loại tàu hiện có trên thị trường. Với giá chào bán khoảng 500 triệu USD, tàu Soryu không đắt hơn nhiều so với các loại tàu khác".
Ngoài tàu ngầm, sau khi dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí cho nước ngoài - một lệnh cấm do Nhật Bản tự áp đặt cách đây một thế kỷ, Nhật Bản đã thảo luận với Ấn Độ về việc bán cho Ấn Độ các máy bay chở quân ShinMaywa US-2i.
Cửa ải châu Âu
Tuy có nhiều lựa chọn, song giới chuyên môn cho rằng để có thể thành công trên thị trường vũ khí quốc tế, Nhật Bản cần phải vượt qua “cửa ải” đầu tiên là thị trường châu Âu.
Hiện tại, uy tín và danh tiếng của các hãng chế tạo vũ khí Nhật Bản chưa được biết đến nhiều trên thị trường trang bị quân dụng thế giới.
Nếu có thể “mở cửa” thị trường châu Âu, đương nhiên các hãng chế tạo trang bị quân sự của Nhật Bản sẽ giành được sự tin tưởng từ phần còn lại của thế giới.
Trên thực tế, ngay từ đầu năm 2015, chính quyền Nhật Bản đã tích cực cùng doanh nghiệp nước này “chào hàng”.
Trong bối cảnh nhắm tới thị trường châu Âu, người Nhật đang tập trung chào bán sản phẩm máy bay cảnh báo sớm hạng nhẹ cho quân đội Hoàng gia Anh.
Máy bay P-1 của Nhật Bản
Tháng 1/2015, trong một bài diễn thuyết tại thủ đô London của Anh, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Onodera Itsunori đã giới thiệu máy bay cảnh báo sớm loại nhẹ P1 do hãng chế tạo công nghiệp nặng Kawasaki của Nhật Bản chế tạo có ưu thế vượt trội về tốc độ, thời gian bay và tính năng trinh sát, đồng thời gợi ý London và Tokyo có thể hợp tác trong lĩnh vực hàng không.
Cũng trong tháng Một, khi hội đàm với người đồng cấp Anh Michael Fallon, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Gen Nakatani đã đề nghị hai bên thảo luận ở cấp độ chuyên môn về việc mua bán P1.
So với máy bay trinh sát tìm kiếm tàu ngầm thế hệ trước P3, máy bay cảnh báo sớm P1 có tốc độ bay và trần bay cao hơn 1,3 lần, quãng đường bay xa hơn 1,2 lần.
Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản dự kiến sẽ mua 70 máy bay loại này nhưng do giá thành cao, lên tới 20 tỉ yên 1 chiếc nên phía Nhật Bản tích cực thúc đẩy xuất khẩu loại máy bay này để giảm giá thành.
Tuy nhiên, bước chân vào thị trường Anh không hề dễ dàng. Không quân Hoàng gia Anh từ trước đã ngắm tới máy bay trinh sát P8 do hãng Boeing của Mỹ sản xuất, bất chấp việc Tokyo đưa ra hàng loạt bình luận bất lợi cho P8 như máy bay này phát triển dựa trên khung sườn máy bay dân dụng…
Ngay cả khi P1 có thể có mức giá cạnh tranh hơn, thì nhiều nhà phân tích vẫn cho rằng Không quân Hoàng gia Anh sẽ lựa chọn P8 dựa trên cân nhắc tới quan hệ đồng minh sâu sắc Anh-Mỹ.
Thậm chí ngay cả khi Tokyo thành công trong việc bán P1 cho Không quân Anh, thì cũng không có nghĩa cánh cửa thị trường châu Âu đã rộng mở đối với các hãng chế tạo trang bị quân dụng Nhật Bản.
Trên thực tế, số lượng các hãng chế tạo vũ khí tại châu Âu đã rất nhiều, và có mối quan hệ chặt chẽ từ nhiều năm nay nên rất khó để các hãng chế tạo Nhật Bản giành được thị trường này.
Một trở ngại nữa đối với việc xuất khẩu vũ khí vào thị trường châu Âu là Tokyo, cho đến nay, chỉ đàm phán song phương với một nước ở châu Âu, cụ thể là Anh và Pháp.
Điều này cũng gây ức chế đối với các hãng chế tạo vũ khí của Italy, Thụy Điển, Tây Ban Nha,... tạo rào cản cho quá trình hợp tác, mua sắm linh kiện, thiết bị với Nhật Bản.
Để khắc phục yếu tố này, Tokyo đang đưa ra một gợi ý chưa chính thức về việc xúc tiến đàm phán ký kết một hiệp ước hợp tác trang thiết bị quốc phòng với tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương.
P-1 chưa thể giúp vũ khí Nhật Bản sớm “cất cánh”
Chính quyền Abe đang chuẩn bị sẵn sàng các chính sách cần thiết cùng khuôn khổ hỗ trợ tài chính và thể chế để giúp ngành công nghiệp quốc phòng Nhật Bản trở thành đối thủ cạnh tranh lớn trên thị trường công nghệ quốc phòng và vũ khí quốc tế.
Theo nhật báo “Sankei”, đầu tháng 3/2015, Chính phủ Nhật Bản đã thông qua nghị quyết sửa đổi Luật tổ chức Bộ Quốc phòng, theo đó thành lập Cục Trang bị Quốc phòng.
Cơ quan này sẽ tập trung kiểm soát phát triển thiết bị quốc phòng, thu mua và xuất khẩu.
Nó sẽ dẫn đến việc mở rộng xuất khẩu vũ khí và kết nối sự phát triển của các doanh nghiệp quốc phòng với chiến lược tăng trưởng của chính phủ.
Tháng 12/2014, Bộ Quốc phòng Nhật Bản cũng thành lập một ban điều hành để thúc đẩy xuất khẩu vũ khí và phát triển chung.
Ban điều hành có nhiệm vụ giúp xây dựng cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân có liên quan và thiết lập một hệ thống xác định nhu cầu và tiêu chuẩn công nghệ của các nước đối tác.