Xem phần trước: Các loại vũ khí trang bị cho cường kích A-10
Phiên bản YA-10
Nguyên mẫu YA-10 thứ nhất (c/n 71-1369)
Hai nguyên mẫu YA-10A của Fairchild-Republic để dự thi chương trình A-X. Nguyên mẫu thứ nhất (c/n 71-1369) và nguyên mẫu thứ hai (c/n 71-1370).
Nguyên mẫu YA-10 thứ hai (c/n 71-1370)
Phiên bản YA-10A DT&E
YA-10A DT&E - Phân biệt bằng ống pitot dài trước mũi máy bay
Có tổng cộng 10 chiếc YA-10A Thử nghiệm và Đánh giá (DT&E) được chế tạo trước khi máy bay đi vào sản xuất hàng loạt.
Phiên bản A-10A
A-10A - Thế hệ sản xuất hàng loạt đầu tiên của "Lợn rừng" A-10
Phiên bản OA-10A
OA-10A - Phiên bản này không khác gì chiếc A-10A
Biến thể máy bay kiểm soát không phận tiền tuyến (Forward Air Control/ FAC), có nhiệm vụ đánh dấu vị trí quân địch cho máy bay khác oanh kích, đảm bảo an toàn cho lực lượng mặt đất của mình. OA-10A không khác gì A-10A nhưng được trang bị một số thiết bị bắn đạn đánh dấu.
Phiên bản YA-10B N/AW (Night/ Adverse Weather)
YA-10B N/AW
Chiếc YA-10A DT&E đầu tiên (c/n 31-1664) được cải tiến thành YA-10B N/AW để hoạt động ban đêm và trong thời tiết bất lợi. Máy bay có phi hành đoàn 2 người để hỗ trợ nhau trong các chiến dịch ban đêm.
YA-10B N/AW được bổ sung các thiết bị điện tử mới nhất dạng pod treo ngoài như hệ thống phát hiện hồng ngoại phía trước AN/AAR-42 FLIR, radar vẽ bản đồ mặt đất Westinghouse WX/50, radar đo cao AN/APN-194 và có thể trang bị hệ thống chỉ thị mục tiêu bằng laser AN/AVQ-26 PAVE TACK.
Cánh đuôi YA-10BN/AW được kéo dài lên trên 0,5 m để giữ thăng bằng tốt hơn trong khi bay ở điều kiện thời tiết xấu.
Tuy nhiên Không quân Mỹ không hứng thú với phiên bản này vì tăng thêm 1 phi công, làm giảm lượng nhiên liệu mang theo. Trong khi tấn công ban đêm thì đã có AGM-65D Maverick D đảm nhiệm và các gói nâng cấp A-10A. Vì thế chỉ có duy nhất 1 chiếc YA-10B N/AW xuất xưởng.
Pod phát hiện hồng ngoại phía trước AN/AAR-42 FLIR lắp trên giá treo vũ khí của YA-10B
Hệ thống chỉ thị mục tiêu bằng laser AN/AVQ-26 PAVE TACK
Phiên bản A-10C
Máy bay cường kích A-10C với cánh chính bên phải được lắp pod quang điện tử LANTIRN (khoanh đỏ)
Gói nâng cấp toàn diện cho A-10A và OA-10A vào năm 2005 để thực hiện nhiệm vụ trong môi trường tác chiến hiện đại mới, có tên là Precision Engagement (PE), bao gồm nâng cấp hệ thống điện tử hàng không, hệ thống điều khiển hỏa lực, hệ thống phòng vệ cũng như vũ khí.
Trong đó A-10C sẽ được trang bị pod quang điện tử LANTIRN hoặc Sniper XR, có khả năng trinh sát và chỉ thị mục tiêu bằng laser, không cần phải phụ thuộc vào bên ngoài. Ngoài ra máy bay còn mang được bom điều khiển bằng vệ tinh GBU-31 JDAM để tăng khả năng tấn công chính xác.
Buồng lái của A-10C với màn hình hiển thị đa chức năng
Thông số kỹ thuật cơ bản phiên bản A-10A
Phi hành đoàn: 1 người; Chiều dài: 16,26 m; Sải cánh: 17,53 m; Chiều cao: 4,47 m; Diện tích cánh: 47 m2; Trọng lượng rỗng: 11.321 kg; Trọng lượng cất cánh tối đa: 23.000 kg.
Động cơ: 2 động cơ turbine phản lực General Electric TF34-GE-100, cung cấp lực đẩy 40,32 kN mỗi chiếc; Trọng lượng nhiên liệu bên trong: 4.990 kg; Tốc độ tối đa: 800 km/h ở độ cao 1.500 m; Tốc độ hành trình: 560 km/h.
Bán kính hoạt động khi hỗ trợ cận chiến: 460 km với thời gian bay 2 giờ và tham chiến trong 10 phút. Bán kính hoạt động khi chống tăng: 467 km với thời gian hoạt động 30 phút. Tầm bay tối đa: 4.150 km; Trần bay tối đa: 13.700 m.