Khoảng 1/3 dân số Mỹ đã nhiễm COVID-19 vào cuối năm 2020, theo một nghiên cứu mới được công bố ngày 26/8 trên tạp chí Nature.
Trong nghiên cứu, Tiến sĩ Jeffrey Shaman, Giám đốc Chương trình Khí hậu và Sức khỏe tại Đại học Columbia (Mỹ), và các đồng nghiệp, đã mô phỏng sự lây lan của SARS-CoV-2 ở tất cả 3.142 hạt của nước Mỹ.
Mỹ là quốc gia có số ca nhiễm và tử vong do COVID-19 được xác nhận cao nhất trên thế giới trong năm 2020. Hơn 19,6 triệu ca nhiễm COVID-19 đã được báo cáo vào cuối năm 2020.
[Đọc thêm: Chuyên gia hàng đầu tiết lộ thời điểm Mỹ kiểm soát được COVID-19]
Nhưng các tác giả nghiên cứu cho biết "69% dân số Mỹ vẫn có thể bị nhiễm virus".
'Chúng ta vẫn chưa cải thiện được tình hình’
Jill Foster, một bác sĩ bệnh truyền nhiễm nhi khoa tại Đại học Y Minnesota, Minneapolis, cho biết nghiên cứu bổ sung thêm bằng chứng cho thấy: "Chúng ta vẫn chưa cải thiện được tình hình dịch COVID-19 và vẫn chưa tới gần miễn dịch cộng đồng - nếu điều này là khả thi với SARS- CoV-2".
Bác sĩ Foster cho biết những con số trong nghiên cứu là đặc biệt đáng lo ngại, nhất là số người vẫn có thể bị nhiễm bệnh và lây nhiễm cho người khác. "Cao hơn nhiều so với những gì hầu hết mọi người nghĩ và cao hơn rất nhiều khi so sánh với bệnh cúm", bác sĩ nói.
"Vẫn có nhiều người có thể bị nhiễm virus hơn chúng ta nghĩ", bác sĩ nói. "Nếu mô hình này tiếp tục, trong đó biến thể Delta lây nhiễm cho một số người được tiêm vaccine, số người có thể bị nhiễm virus thậm chí còn tăng cao hơn so với dự đoán".
Nhân viên y tế chuẩn bị tiêm vaccine COVID-19 ở Mỹ.
Bác sĩ Foster cho biết những con số này gióng lên một lời cảnh báo rằng COVID-19 nên được coi là mối đe dọa vẫn đang tồn tại.
Bà nói: "Chúng ta cần thừa nhận rằng sự lây nhiễm COVID-19 đang âm ỉ và có thể bùng phát định kỳ trên khắp nước Mỹ".
Tỷ lệ tử vong đã giảm
Tiến sĩ Jeffrey Shaman cho biết một số dữ liệu cho thấy tín hiệu tích cực. Tỷ lệ tử vong do nhiễm COVID-19 đã giảm từ 0,77% trong tháng 4 xuống 0,31% vào tháng 12. Các tác giả nghiên cứu cho rằng điều đó có thể là do những cải tiến trong chẩn đoán và điều trị, chăm sóc bệnh nhân và giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh.
Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong vẫn cao gần gấp 4 lần tỷ lệ tử vong ước tính do cúm (0,08%) và tỷ lệ này trong đại dịch cúm năm 2009 (0,0076%), các tác giả viết.
Bác sĩ Joe K. Gerald, giám đốc chương trình quản lý và chính sách y tế công cộng tại Đại học Arizona ở Tucson (Mỹ), cho biết nghiên cứu này giúp xác nhận rằng COVID-19 nguy hiểm hơn nhiều so với bệnh cúm và sự phản ứng cấp thiết của chúng ta là hoàn toàn đúng đắn.
Ông nói: "Chúng ta nên sẵn sàng đầu tư vào việc giảm thiểu COVID-19 nhiều hơn so với bệnh cúm mùa vì nó gây ra những hậu quả lớn hơn nhiều", bác sĩ Gerald nói.
Các con số này cho thấy việc xét nghiệm phải được cải thiện. Gerald nói: "Chúng ta không có đủ xét nghiệm và các bài xét nghiệm không dễ tiếp cận. Trong phần lớn năm 2020, chúng ta hầu như tự mò mẫm trong bóng tối mà không biết chuyện gì đang xảy ra".
Bác sĩ Gerald thừa nhận số xét nghiệm đã tăng lên trong năm nay, nhưng việc xét nghiệm COVID-19 vẫn còn chậm.
Ông nói: "Chúng ta không thể để lọt mất các ca nhiễm COVID-19 mà vẫn hy vọng sẽ kiểm soát được dịch bệnh".
Nghiên cứu mới cũng chỉ ra sự khác biệt rất lớn về số ca nhiễm và số ca tử vong ở mỗi tiểu bang Mỹ, thậm chí ở mỗi hạt, và sự thay đổi đó vẫn tiếp tục. Bác sĩ Gerald lưu ý rằng những con số này khiến một số khu vực khó chấp nhận các quy định nghiêm ngặt và rộng rãi hơn, bởi vì mối đe dọa từ COVID-19 ở mỗi nơi là khác nhau.
Ông nói: "Chúng ta phải suy nghĩ theo từng khu vực, có bao nhiêu người dễ mắc bệnh và khả năng xét nghiệm là bao nhiêu. Các tiểu bang và thậm chí các quận nên dành một khoảng thời gian để đưa ra một số quyết định quan trọng về sức khỏe cộng đồng, bởi vì điều kiện địa phương sẽ khác nhau vào những thời điểm khác nhau".
(Nguồn: Web MD)