Từ khi còn là bào thai trong lòng mẹ đến khi ra đời và trưởng thành, hoạt động của não liên quan mật thiết đến sức khỏe nói chung. Khi mạch máu não bình thường, não được nuôi dưỡng tốt, cơ thể của chúng ta khỏe mạnh.
Khi mạch máu não bị bệnh, hoạt động của các tế bào não bị ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau, cơ thể của chúng ta sẽ rơi vào trạng thái rối loạn do mất chỉ đạo từ não bộ.
Một trong những căn bệnh gây tử vong hàng đầu
Theo số liệu thống kê hiện nay, hàng năm, trên thế giới có từ 16 - 17 triệu người mắc tai biến mạch não và có tới 6 triệu trường hợp tử vong. Như vậy, bệnh mạch máu não là nguyên nhân phổ biến gây tử vong đứng thứ hai trên toàn cầu.
Sau khi được cứu chữa qua giai đoạn cấp tính, khoảng 1/4 số bệnh nhân còn di chứng như liệt vận động, rối loạn ngôn ngữ, suy yếu trí tuệ và 1/3 mắc trầm cảm. Biểu hiện lâm sàng của tai biến mạch não là cơn đột quỵ não phần lớn do nhồi máu não (75 - 80% các trường hợp), còn lại là do chảy máu não (10 - 15% các trường hợp) và chảy máu dưới nhện (5%).
Nói chung, cứ 2 giây đồng hồ lại xảy ra 1 trường hợp đột quỵ não trên thế giới và như vậy, theo GS. Raad Shakir - Chủ tịch Liên đoàn Thần kinh học Thế giới - có thể nói "đột quỵ não" là bệnh dịch của thế kỷ 21.
Bệnh lý chính của mạch máu não là huyết khối trên nền vữa xơ mạch máu.
Liên quan tới nhiều cơ chế bệnh sinh khác nhau
Bệnh mạch máu não liên quan tới nhiều cơ chế bệnh sinh khác nhau. Bệnh của động mạch lớn là nguyên nhân chủ yếu gây nhồi máu não ở các nước phát triển. Bệnh lý chính là huyết khối trên nền vữa xơ mạch máu, tuy nhiên, cũng có thể gặp các bệnh khác như bóc tách động mạch, viêm mạch và bệnh Moyamoya.
Bệnh của động mạch nhỏ thường gây nhồi máu não dưới vỏ não được gọi là nhồi máu ổ khuyết. Các động mạch xuyên gắn với thương tổn này thường có biến đổi cấu trúc dạng thoái hóa mỡ - kính. Một số nguyên nhân ít gặp hơn là viêm động mạch, rối loạn đông máu, bệnh động mạch não tự thể trội kết hợp nhồi máu dưới vỏ và bệnh não chất trắng (CADASIL).
Ngoài ra, còn phải kể đến đột quỵ não căn nguyên ấn hoặc nhồi máu não không rõ nguyên nhân.
Những yếu tố nguy cơ
Các yếu tố nguy cơ đối với bệnh mạch máu não là: tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, hút thuốc lá, sử dụng nhiều rượu, có bệnh tim, đái tháo đường, chế độ dinh dưỡng nghèo nàn, không hoạt động thể lực, tỉ lệ vòng bụng lớn, yếu tố tâm lý - xã hội. Ngoài ra, còn phải chú ý đến vấn đề ô nhiễm không khí và tuổi đời cao.
Cần nhấn mạnh là chỉ riêng tăng huyết áp đã là yếu tố nguy cơ lớn nhất đối với đột quỵ não, có thể chiếm tới 50% các trường hợp và đồng thời cũng làm gia tăng nguy cơ chảy máu não.
Xử trí thế nào?
Trước hết, cần kịp thời phát hiện sớm các dấu hiệu như liệt mặt, liệt tay hoặc chân, hoặc liệt nhẹ nửa người, nói khó khăn, líu ríu, chóng mặt hoặc nhức đầu dữ dội xuất hiện đột ngột ở một người trước vẫn bình thường.
Cần nhanh chóng vận chuyển bệnh nhân đến một cơ sở y tế gần nhất để được xử trí cấp cứu kịp thời. Không được để bệnh nhân tại nhà điều trị theo kinh nghiệm dân gian vì diễn biến của bệnh rất phức tạp, kể cả chuyên khoa sâu cũng không lường trước hết được mọi trường hợp.
Tại các bệnh viện chuyên khoa về bệnh mạch máu - thần kinh, phương pháp tiêu huyết khối đường tĩnh mạch đã được ứng dụng từ 15 năm nay trên thế giới.
Việc ứng dụng kỹ thuật điều trị này sử dụng chất sinh plasmin mô tái tổ hợp làm tiêu huyết khối trong lâm sàng đã thúc đẩy xây dựng các Đơn vị/Đội/Trung tâm Đột quỵ não/Trung tâm bệnh mạch máu - thần kinh.
Trong trường hợp khi phương pháp này không hiệu quả vì cục máu tắc quá lớn sẽ tiến hành xử lý bằng kỹ thuật nội mạch: sử dụng một ống thông để hút cục máu tụ ra một cách an toàn. Ở nước ta, phương pháp điều trị này đã và đang được ứng dụng tại một số đơn vị, khoa, trung tâm đột quỵ não quân và dân y.
Lời khuyên của thầy thuốc
Ngoài việc chăm sóc, cứu chữa bệnh nhân bị tai biến mạch não, việc phổ biến kiến thức đột quỵ não nói riêng, bệnh mạch máu não nói chung cần được hết sức quan tâm trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là công tác phòng bệnh.
Để phòng ngừa bệnh mạch máu não, cần chú trọng điều trị tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh tim (rung nhĩ) cũng như tăng cường hoạt động thể lực, bỏ thuốc lá và ngừa béo phì. Mặt khác, cần định kỳ tới kiểm tra sức khỏe tại các cơ sở y tế hoặc phòng khám chuyên khoa.