Vận hành tàu ngầm hiện là một công việc rất nguy hiểm và sau này vẫn vậy. Ngay cả những tàu ngầm hạt nhân mang công nghệ tối tân nhất vẫn có thể phải nằm lại dưới đáy đại dương nếu kíp thủy thủ đoàn phạm phải sai lầm hoặc xảy ra các sự cố kỹ thuật.
Theo nhà phân tích Dave Majumdar trên tạp chí National Interest, dưới đây là những tai nạn tàu ngầm khủng khiếp nhất trong vài thập kỷ qua.
1. Tàu ngầm Kursk (năm 2000)
Có lẽ thảm họa tàu ngầm tồi tệ nhất trong gần 2 thập kỷ qua là vụ tai nạn của tàu K-141 Kursk. Đây là tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa dẫn đường thuộc Đề án 949A lớp Antey (NATO định danh: Oscar II) của Nga.
Con tàu 16.000 tấn đã bị phá hủy trong một vụ nổ kinh hoàng vào ngày 12/8/2000, khiến toàn bộ 118 thành viên trên tàu thiệt mạng.
Phần còn lại của tàu ngầm Kursk sau vụ nổ
Những mảnh vỡ của tàu Kursk cuối cùng đã được phục hồi và nguyên nhân sự cố được cho là do ngư lôi Type-65-76A. Đây là thứ vũ khí cực mạnh, một quả ngư lôi Type-65-76A cũng có thể phá hủy cả một chiếc tàu sân bay. Tuy nhiên, không hiểu vì sao Liên Xô lại thiết kế loại ngư lôi này sử dụng nhiên liệu hydrogen peroxide - rất dễ bay hơi và đòi hỏi phải xử lý cẩn thận.
Thật không may cho kíp thủy thủ của tàu ngầm Kursk, họ có vẻ chưa được đào tạo đầy đủ, cũng như chưa có nhiều kinh nghiệm xử lý những loại vũ khí như vậy.
Sau thảm họa tàu ngầm Kursk, Hải quân Nga đã loại bỏ khỏi biên chế các loại ngư lôi sử dụng nhiên liệu hydrogen peroxide.
2. Tàu ngầm Komsomolets (năm 1989)
K-278 Komsomolets là chiếc duy nhất thuộc đề án 685 lớp Plavnik (NATO định danh: Mike) được hoàn thiện.
Được thiết kế chủ yếu để thử nghiệm các công nghệ mới, tàu ngầm Komsomolets (lượng giãn nước 8.000 tấn) là một trong những tàu ngầm có khả năng hoạt động cao nhất từng được chế tạo, nó có thể lặn sâu hơn 900m.
Giống như lớp Papa, tàu ngầm đề án 685 lớp Plavnik được phát triển để thử nghiệm các công nghệ tự động hóa và giúp Liên Xô hoàn thiện khả năng chế tạo thân chịu lực bằng titanium.
Komsomolets bị chìm vào ngày 7/4/1989, sau khi xảy ra một vụ cháy trên tàu. Ngọn lửa đã kéo theo một loạt sự cố khiến con tàu chìm nghỉm.
Bất chấp nỗ lực anh hùng của thủy thủ đoàn, 42/69 thành viên trên tàu đã thiệt mạng trong vụ tai nạn.
Lò phản ứng hạt nhân và 2 đầu đạn hạt nhân vẫn đang kẹt lại cùng tàu Komsomolets ở độ sâu gần 1.700m tại biển Barents. Đây là một nguy cơ tiềm ẩn, có thể khiến thảm họa tái diễn một lần nữa.
3. Tàu ngầm K-8 (năm 1970)
K-8 là tàu ngầm tấn công hạt nhân đề án 627A lớp Kit, bị chìm sau vụ cháy vào tháng 4/1970.
Tàu ngầm K-8 của Liên Xô khi thực hiện nhiệm vụ trên biển.
Con tàu gặp hỏa hoạn vào ngày 8/4/1970 trong một cuộc diễn tập, do dầu tiếp xúc với hệ thống tái sinh không khí bên trong tàu. Đám cháy nhanh chóng lan qua hệ thống điều hòa không khí và lò phản ứng ngừng hoạt động, thuyền trưởng ra lệnh các thủy thủ rời bỏ con tàu.
Sau khi tàu cứu hộ được điều động đến, họ quay trở lại tàu. Tuy nhiên, trên đường di chuyển, K-8 đã chìm xuống trong điều kiện biển động mạnh, sóng dội, kéo theo 52 thủy thủ trên tàu.
Phải nói rằng, Nga đã gặp rất nhiều sự cố dẫn tới hỏa hoạn trên tàu ngầm. K-3 Leninsky Komsomol, chiếc tàu ngầm hạt nhân tấn công đầu tiên của Nga cũng gần như bị phá hủy do vụ cháy xảy ra vào tháng 9/1967.
4. Tàu ngầm USS Scorpion (năm 1969)
Trong khi Nga và Liên Xô đã gặp phải nhiều thảm họa tàu ngầm thì Mỹ cũng không ngoại lệ. Ngày 22/5/1969, tàu ngầm USS Scorpion (lớp Skipjack) đã bị chìm khi cách quần đảo Azores 400 dặm về phía tây nam, kéo theo 99 thủy thủ trên tàu.
Nguyên nhân tại sao tàu Scorpion lại không thể trở về cảng vào năm đó vẫn là một bí ẩn. Hải quân Mỹ đã tiến hành tìm kiếm nhưng sau đó thông báo tàu Scorpion đã nằm lại ở độ sâu hơn 3.000m dưới biển.
Hải quân Mỹ cho biết họ đã nắm được điều gì có thể đã xảy ra với tàu Scorpion nhưng không tiết lộ bất cứ chi tiết nào. Một số nguồn tin mở cho rằng nguyên nhân vụ tai nạn là do một vụ nổ vô tình của ngư lôi Mark 37.
5. Tàu ngầm USS Thresher (năm 1963)
USS Thresher bị chìm vào ngày 10/4/1963, cùng với 129 thủy thủ trên boong. Đây là thảm họa tàu ngầm hạt nhân đầu tiên và cho tới nay, là vụ tai nạn có số người thiệt mạng cao nhất.
Con tàu chìm nghỉm khi nó đang tiến hành lặn ở độ sâu khoảng gần 400m. 5 phút trước khi mất liên lạc với con tàu, tàu cứu hộ tàu ngầm Skylark đã nhận được tín hiệu cho biết tàu Thresher đang gặp phải một vài trục trặc nhỏ về kỹ thuật.
Skylark tiếp tục nhận được tín hiệu ngắt quãng cho tới khi hệ thống định vị thủy âm ghi nhận tín hiệu cấp cứu tàu ngầm.
Ảnh chụp tàu USS Thresher sau khi bị chìm.
Ban điều tra của Hải quân Mỹ phát hiện thấy nguyên nhân vụ việc có thể là do hệ thống ống dẫn gặp trục trặc, khiến nước tràn vào khoang động cơ. Bụi nước biển làm tắt lò phản ứng hạt nhân và do tàu đang ở độ sâu lớn, nơi có nhiệt độ nước biển rất thấp nên hình thành băng trong đường ống dẫn khí của két dằn.
Thủy thủ đoàn không thể tiếp cận với thiết bị cần thiết để ngăn nước tràn vào.
Sau thảm họa tàu ngầm Thresher, Hải quân Mỹ đã xây dựng chương trình SUBSAFE, trong đó có một hệ thống dữ liệu kiểm tra và tái kiểm tra tất cả các thành phần quan trọng trên tàu ngầm hạt nhân.