Phần lớn rơm rạ chưa được tận dụng hiệu quả, chủ yếu đốt đồng gây ô nhiễm.
Nguồn tài nguyên ‘khổng lồ’ bị đốt bỏ
Thông tin tại hội thảo Chuỗi giá trị rơm rạ: Chính sách và cơ hội đầu tư, diễn ra ngày 19/11 tại Cần Thơ cho thấy, Việt Nam sản xuất khoảng 44 triệu tấn gạo mỗi năm cùng với lượng rơm rạ tương đương. Tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), trên 50% lượng rơm này vẫn bị đốt tại ruộng, gây ô nhiễm không khí, phát thải khí nhà kính và thất thoát giá trị kinh tế.
“Đây là nghịch lý lớn, những gì đang bị xem phế phẩm hoàn toàn có thể trở thành tài nguyên có giá trị nếu có chính sách và đầu tư phù hợp”, TS Robert Caudwell - Trưởng đại diện Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) tại Việt Nam nhận định.
Ông Lê Đức Thịnh – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho rằng, trong bối cảnh Chính phủ đã phê duyệt Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao phát thải thấp và cam kết Net Zero đến năm 2050, quản lý rơm rạ đã chuyển thành một trụ cột chiến lược của chuyển đổi xanh trong ngành lúa gạo. Nếu không giải quyết triệt để câu chuyện rơm rạ, mục tiêu giảm phát thải và nâng cao giá trị chuỗi giá trị sẽ khó đạt được.
Bà Phạm Thị Minh Hiếu - Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Cần Thơ cho biết, thực tế, các mô hình kinh tế tuần hoàn từ rơm ở một số hợp tác xã (HTX) đã phát triển thành công, nhờ sự kết hợp giữa công nghệ phù hợp, tổ chức thực hiện mô hình tốt và hỗ trợ chính sách. Các mô hình này tạo việc làm cho hàng trăm lao động và giúp nông dân tăng thu nhập trên 10%.
Các chuyên gia, nhà quản lý bàn giải pháp quản lý, khai thác hiệu quả rơm rạ tránh gây ô nhiễm.
Khoảng trống quản lý
Báo kết quả nghiên cứu tại 14 xã tại các tỉnh ĐBSCL, TS. Nguyễn Hồng Tín (Đại học Cần Thơ) cho biết, trong chuỗi giá trị rơm rạ, thương lái đóng vai trò “tác nhân dẫn dắt”, có biên lợi nhuận cao nhất. Tuy nhiên, chuỗi giá trị đang hoạt động thiếu khung chính sách rõ ràng và hỗ trợ thể chế.
Theo TS. Tín, nghiên cứu cũng chỉ ra 4 nhóm khoảng trống chính gồm: Rơm rạ vẫn bị xem là phế phụ phẩm, chứ chưa được công nhận là tài nguyên sinh khối, thiếu tiêu chuẩn kỹ thuật. Không có sàn giao dịch chính thức cho rơm rạ, chủ yếu giao dịch theo kiểu thỏa thuận. Chính sách giảm đốt rơm thiếu hỗ trợ tài chính cụ thể. Chưa có chuẩn an toàn lao động, thiếu thống kê chính thức và bộ chỉ số theo dõi cấp tỉnh.
Theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&MT), hệ quả của khoảng trống quản lý là việc đốt rơm rạ tùy tiện, gây ô nhiễm và phát thải cao. Cùng với đó, thị trường manh mún, thiếu tổ chức; dịch vụ thu gom yếu, thiếu cơ giới hóa; không có dữ liệu, không hình thành được chuỗi giá trị bền vững.
Từ đó đặt ra yêu cầu định vị lại quản lý rơm rạ, xác định rơm rạ là một nhiệm vụ quản lý nhà nước, có đối tượng, mục tiêu, công cụ. Rơm rạ phải được xem là tài nguyên phụ phẩm, có quy chuẩn, trách nhiệm chuỗi, thị trường, quy chuẩn phát thải. Cần có công cụ pháp lý kiểm soát, xử phạt hành vi đốt rơm; công cụ kinh tế trong hỗ trợ thu gom, ưu đãi cơ giới hóa, tín chỉ carbon; mô hình “cánh đồng không đốt rơm”.
Quản lý chuỗi thu gom, vận chuyển, chế biến lấy HTX làm trung tâm, doanh nghiệp là đầu ra thị trường, thương lái vận chuyển. Tổ chức chuỗi giá trị rơm rạ, xây dựng mô hình HTX dịch vụ cơ giới hóa thu gom rơm rạ. Hình thành các điểm tập kết rơm rạ. Doanh nghiệp đóng vai trò thị trường; ký hợp đồng với HTX về nguồn cung rơm…
Từ góc độ quản lý nhà nước, lãnh đạo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cho rằng, cần hoàn thiện thể chế và khung pháp lý để công nhận rơm rạ là tài nguyên sinh khối, không phải phế phụ phẩm. Ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về thu gom - bảo quản - vận chuyển và tái sử dụng, tạo nền tảng pháp lý cho thị trường rơm rạ phát triển bền vững.
Cùng với đó, cần tổ chức lại chuỗi giá trị với vai trò trung tâm của HTX, phát triển mô hình HTX cung cấp dịch vụ cơ giới hóa thu gom, điểm tập kết, liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp chế biến phân hữu cơ, than sinh học (biochar), viên nén sinh khối và ứng dụng công nghệ. Sự kết nối này sẽ đem lại nguồn cung ổn định, chia sẻ giá trị và tăng thu nhập cho nông dân.
Đồng thời, phải huy động đồng bộ nguồn lực tài chính và tích hợp cơ chế carbon, sớm xây dựng hệ thống đo đạc - báo cáo - thẩm định (MRV) cho rơm rạ, để tích hợp vào cơ chế tín chỉ carbon. Từ đó tạo động lực kinh tế rõ rệt cho người dân và doanh nghiệp tham gia mô hình bền vững.
"Ở góc độ kinh tế và môi trường, cần xác định rơm rạ là nguồn tài nguyên và sử dụng hiệu quả, ứng xử phù hợp. Coi xử lý rơm rạ như một nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển ngành lúa gạo, chiến lược phát triển nông nghiệp xanh, sạch", nguyên Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát nói.