Những “màn kịch chua xót” dẫn đến thảm cảnh “đầu đường xó chợ”
Có lẽ, bao nhiêu người vô gia cư là bấy nhiêu thảm kịch đẩy họ ra khỏi lũy tre làng, khỏi mỗi mái ấm gia đình và dòng tộc. Có những bi kịch mà cuộc đời xô lại như bà cụ Loan gần đất xa trời, vì con cái mà biến thành người vô gia cư theo đúng nghĩa đen; như ông Sơn, bà Mận, vì vết thương lòng không thể nào bù lấp mà nhất quyết không bao giờ ngoảnh mặt về quê.
Lại có những bi kịch theo kiểu “dòng đời không đẩy thì ta tự đẩy” như chị Mai, chị Tươi, vì không chịu được cảnh nghèo khó, vì muốn được ăn chơi nhiều, làm ít, làm nhàn - để rồi họ tự lao đến chốn phồn hoa không khác gì thiêu thân lao vào lửa.
Có những người chấp nhận cuộc sống khốn khó vì vật chất thay cho việc ngày ngày bị những vết thương lòng gặm nhấm. Song, cũng có những người tự rời bỏ nếp nhà bình yên, quăng thân ra đầu đường xó chợ, để rồi đến cuối đời mới nhức buốt, mới xót xa ân hận trong… muộn màng.
Trong túp lều tạm bợ căng lên ven đường sắt ở trung tâm Hà Nội (đoạn từ chỗ đường ray cắt với đường Nguyễn Thái Học đến đoạn cắt với đường Điện Biên Phủ), hai ông bà cụ Phạm Ngọc Sơn (78 tuổi), Chu Thị Mận (74 tuổi) tưng tửng kể cho chúng tôi nghe thảm cảnh cuộc đời mình. Nghe cứ như một cơn ác mộng.
Bà Mận bảo bà cũng có quê quán, có nhà cửa đàng hoàng, nhà bà ở xã Vĩnh Hồng dưới Hải Dương ấy. Bà vẫn hay về quê, nhưng mấy chục năm nay, bà cũng không biết hộ khẩu của mình có hay không và nếu có thì nó nằm ở đâu...
Trong câu chuyện dài hơn cả tiểu thuyết của đời mình, bà kể ngày xưa bà là vợ bộ đội hẳn hoi. Ông lên đường đánh giặc, bà ở nhà cày ruộng, nuôi nấng hai đứa con một trai, một gái. Hai vợ chồng chẳng bao giờ cãi vã hay to tiếng với nhau, khốn nỗi, một mình bà Mận phải chịu sự nanh ác của cả mẹ chồng lẫn chị chồng.
Không hiểu vì sao mà mẹ chồng lại không ưa bà, lúc nào cũng tìm cớ đánh, chửi. Có lần, bà Mận bụng chửa vượt mặt đang lúi húi nấu cơm trong bếp thì mẹ chồng lôi ra chửi rồi đánh. Bà Mận uất quá mới giằng lấy cái que, thế là mẹ chồng bà lu loa rằng làng nước ơi, có đời thuở nhà ai mà con dâu dám đánh mẹ chồng.
Ông anh chồng (là con bà cả, mẹ chồng bà Mận là vợ lẽ) chứng kiến từ đầu đến cuối nên mới bảo: “Bà quá đáng thế, thím có làm gì đâu mà bà lại lôi thím ra đánh. Hôm nay có con chứng kiến, chứ không chú về, bà kể hơn kể kém, rồi thím lại bị chú đánh oan”.
Chị chồng bà tên là Đ., bà Đ. đã lấy chồng mà suốt ngày về nhà xét nét em dâu. Bà Mận kể, bà đi làm hợp tác xã, về đến nhà thấy “nó” (chị chồng) đong sẵn bò gạo để cạnh cái nồi, ý rằng chỉ cho mày được nấu bằng này gạo thôi. Mà đời thuở nhà ai, nhà bà, bà có bao nhiêu cái chìa khóa thì “nó” cũng có bấy nhiêu. Bà Mận kể lại mà giọng vẫn đầy uất ức: “Nhiều lần không chịu được, bà bỏ về bên ngoại đấy chứ, nó là “giặc bên Ngô” cứ phải gọi nó là… cụ tổ”.
Bà Mận kể về phận làm dâu cay đắng khi còn ở quê
Bà Mận vẫn nhớ rõ cái ngày ông Kích chồng bà về phép, hai vợ chồng còn đi tát nước ruộng lúa, cô con gái nhỏ ngồi ở đầu bờ. Thế mà một tối, chị chồng bà làm cơm, thịt hẳn con gà mái tơ rồi bảo ông Kích lên ăn cơm.
Ăn cơm xong, bà ta bắt em trai phải bỏ vợ, vì bà ta vu vạ rằng em dâu đã tằng tịu với ông bác sĩ làng bên. Chả là dạo ấy, cậu con trai mới vài tuổi đầu của bà ốm đau quặt quẹo, bà đưa sang nhà ông bác sĩ ấy khám, rồi 2 - 3 tuần một lần bà lại lặn lội sang lấy thuốc về cho con. Bao nhiêu công thuốc thang, nhưng đứa con bé bỏng của bà vẫn không qua khỏi. Còn bà thì lại bị chị chồng vu là phải lòng ông bác sĩ.
Thế là ông Kích nghe lời vu vạ của chị gái, nhất quyết đòi bỏ bà. Bà không ký, bỏ lên Hà Nội xin làm công nhân ở ga tàu. Được một thời gian, người ta chuyển bà lên công trường sản xuất gạch ở Thái Nguyên.
Chính bà cũng không ngờ được rằng, lần rời bỏ đó kéo dài cho đến tận ngày hôm nay. Khi đang làm công nhân nông trường gạch, bà nghe tin người chồng mà mình vẫn hằng thương yêu đã lấy vợ khác, bà lại nghe tin từ Tây Nguyên, đứa cháu con chị gái mình vừa chào đời đã mất.
Đau đớn, mất mát, khốn khổ đã làm bà hóa điên. Bà nhảy xuống ao không biết bao nhiêu bận. Đau quá, đến lúc tỉnh lại, bà quyết định đi xa hơn - lên tận nông trường chè Hoàng Liên Sơn làm công nhân.
Làm ở nông trường chè được 3 năm, bà theo anh trai vào thăm chị gái ở Tây Nguyên rồi ở lại gần 2 tháng. Đến khi quay lại nông trường thì người ta không nhận nữa. Chúng tôi hỏi: “Sao khi đó bà không về quê?”. Bà dửng dưng: “Về làm gì? Lần trước bà về hỏi cái hộ tịch của bà, thì “nó” (ông chồng cũ) bảo là cắt rồi. Bà không muốn nhìn thấy cái mặt “nó”, không muốn trông thấy cả họ nhà “nó”. Cưới mấy đứa con “nó”, nhà chúng nó bảo về, nhưng bà về làm gì, nhìn thấy “nó” chỉ thêm uất…”
Thế là bà “dạt” từ Hoàng Liên Sơn xuống Hà Nội, ngày ngày mò cua bắt ốc ở Hồ Tây đem bán. Bấy giờ bà mới ngoài 30 tuổi. Bà may mắn ngủ nhờ được ở gian hàng đầu dốc Hàng Bún, bà đang cần chỗ ngủ, chủ hàng thì đang cần người trông coi. Thế là bà có chỗ ngủ mà không mất tiền.
Đi lang bạt kỳ hồ như thế, không phải là bà không thương con xót cái, cái hồi bà bỏ lên nông trường chè, cái Tươi con bà đã nhèo nhẹo đòi theo, nhưng bấy giờ loạn lạc, thân bà còn chưa biết ra sao nên bà không thể để con phải chịu cảnh cù bơ cù bất như mình. Từ ngày lên Hoàng Liên Sơn đến đến nay, bà vẫn thường về quê, vội vàng thăm nom con cháu rồi lại lên Hà Nội mò cua bắt ốc...
(Còn tiếp)