Là một trong những lớp người già ít ỏi còn lại của làng hiểu rõ về ngôn ngữ lạ, nhưng khi thấy khách muốn tìm hiểu thì cụ Trần Đức Tranh (80 tuổi) tỏ ra thận trọng, dè dặt hẳn.
“Làng tôi tuy nhỏ hẹp nhưng từ lâu nổi tiếng với nghề làm hàng mã truyền thống và nghề bát âm, thầy cúng. Đây là nghề của tổ tiên truyền lại qua nhiều thế hệ, nếu không có ngôn ngữ riêng thì e rằng nghề đã thất truyền ra bên ngoài từ lâu.
Bảo vệ được tiếng nói là bảo vệ được nghề, bảo vệ được nghề cũng là bảo đảm cho cuộc sống chúng tôi, vì ngoài nghề này ra thì làng tôi chẳng có nghề gì khác, đất đai canh tác cũng không có nhiều”, cụ Tranh giải thích.
Cụ Tranh là người già ít ỏi còn lại của làng hiểu rõ về ngôn ngữ lạ. Ảnh: Báo Quảng Trị.
Cụ Tranh kể, tổ tiên của người làng Phú Hải ngày nay được di cư từ Thanh Hoá vào cách đây trên 500 năm, dòng họ lâu nhất đã trải qua đời thứ 21. Làng Phú Hải có 4 họ gồm Lê, Trần, Hồ, Võ nhưng toàn thôn cũng chỉ có khoảng 70 hộ dân với trên 300 nhân khẩu.
“Cách đây mấy chục năm, làng tôi nằm ở rú cát (cách vị trí hiện nay khoảng 15 km), nhưng do sự tàn phá của chiến tranh và nạn bão cát hoành hành nên làng quyết định dời về quần tụ nơi đây”, cụ Tranh kể.
Những bậc cao niên làng Phú Hải cho biết, ngôn ngữ riêng của làng ra đời từ xa xưa với mục đích để chỉ người làng “nói cho nhau nghe” nhằm gìn giữ nghề của cha ông khỏi thất truyền ra các vùng khác.
Theo cụ Tranh, thực ra “mật ngữ” của làng Phú Hải cũng chỉ là cách nói mẹo, đánh tráo chữ, dựa trên ý nghĩa của ngôn ngữ Hán, Nôm. Từ ý nghĩa và cách phát âm của những ngôn ngữ này mà tổ tiên làng Phú Hải đã sáng tạo ra cách nói của riêng mình.
Ví dụ như từ “tỏi” có nghĩa là đi (trong chữ Hán nghĩa từ "hành" là đi, ở đây người làng Phú Hải đã đánh tráo chữ “hành” thành chữ “tỏi”- hành, tỏi vốn là một loại củ có cùng họ hàng với nhau).
Hoặc chữ “tẩu” có nghĩa là đi, thoát - người làng thường hay nói “tẩu vi thượng sách”- nghĩa là thoát thân là tốt nhất trong một tình huống nguy cấp nào đó.
Ngoài nguyên tắc dùng chữ Hán, đánh tráo chữ Hán thì ngôn ngữ làng Phú Hải còn có những chữ không thể nào cắt nghĩa được, ví như nấu cơm thì gọi là “chử náp”; uống nước thì gọi là “cửa thổi”; người gần chết thì gọi là “thượng gần uốn”...
Trong các lễ cúng tại những nơi khác, khi người làng Phú Hải hành nghề thì có sự phân công công việc riêng. Ví như “Bo (tôi) đã ngẵng vi (ông) xuôi” (trong câu này có ý nghĩa là tôi đánh trống, ông thổi kèn”. Hay trong một cuộc trò chuyện nào đó, khi có sự tranh cãi xảy ra thì một người nói “Sư ngọa mô xâu” (có nghĩa là ông không biết gì hết).
Cổng vào làng Phú Hải. Ảnh: Báo Quảng Trị.
Làng Phú Hải là một cộng đồng gắn kết bền chặt. Dù đi đâu, làm gì thì cốt cách, giọng nói của người làng vẫn không hề thay đổi và khó lẫn vào đâu được.
Ngoài thứ ngôn ngữ lạ được gìn giữ qua nhiều thế hệ thì ngay cả tiếng nói của người làng vẫn mang đặc trưng riêng. Dù bốn bề của làng tiếp giáp với những ngôi làng khác nhưng giọng nói của người làng Phú Hải vẫn rất riêng, không giống với bên ngoài. Tiếng nói mang âm điệu lên xuống bất thường, âm vực rộng và nặng, giọng điệu nhấn nhá rất thú vị.
Ngày nay, do đất đai chật hẹp trong khi con cháu ngày một đông, một số con em của làng đã rời quê hương đi nơi khác. Người làng Phú Hải chủ yếu vào Huế sinh sống và làm nghề, khu vực Cồn Hến ở thành phố Huế ngày nay có số lượng người làng Phú Hải làm nghề khá đông.
Tuy nhiên có đi đâu, làm nghề gì đi nữa thì người làng Phú Hải vẫn giữ “mật ngữ” của mình, không bao giờ truyền ra ngoài. Thậm chí đối với người làng khác đến làm dâu, rể nhưng hầu như cũng chỉ biết bập bõm vài từ đơn giản.
Chị Nguyễn Thị Hằng ở làng Linh Chiểu nằm kế bên làng Phú Hải về làm dâu đã 30 năm nay nhưng cũng không thể hiểu được ngôn ngữ của quê chồng.
“Thỉnh thoảng tôi vẫn nghe chồng con trong nhà trao đổi với nhau bằng thứ tiếng lạ ấy nhưng không biết là bố con đang nói gì. Tôi ít để ý, với lại thấy không cần thiết để hỏi nên đâm ra 'mù' luôn ý nghĩa của ngôn ngữ này”, chị Hằng nói.