Nguyễn Trung Ngạn là người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi, nay là Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Ông có hơn 60 năm làm quan trải qua 4 đời vua Trần. Sử sách đánh giá ông là “Người phò tá có công lao tài đức đời Trần” cùng với Trần Quang Khải, Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Đoàn Nhữ Hài, Trần Thì Kiến, Phạm Tông Mại, Trần Nguyên Đán.
Công thần tài đức
Nguyễn Trung Ngạn dự thi cùng năm với trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, mặc dù chỉ đỗ hoàng giáp, nhưng bấy giờ ông mới 16 tuổi, nên được xưng tụng là thần đồng. Đại Việt sử ký toàn thư chép:
Quý Mão, [Hưng Long] năm thứ 1 [1303], (Nguyên Đại Đức năm thứ 7) […] Tháng 3, thi kẻ sĩ trong nước. Ban cho trạng nguyên. Mạc Đĩnh Chi chức Thái học sinh hỏa dũng thủ, sung làm nội thư gia; bảng nhãn Bùi Mộ chức chi hậu bạ thư mạo sam, sung làm nội lệnh thư gia; thám hoa lang Trương Phóng chức Hiệu thư quyền miện, sung làm nhị tư; Nguyễn Trung Ngạn đỗ hoàng giáp; tất cả 44 người đỗ thái học sinh. Dẫn 3 người đỗ đầu ra cửa Long Môn của Phượng Thành đi du ngoạn đường phố 3 ngày. Số khác thì ở lại học tập. Trung Ngạn mới 16 tuổi, đương thời gọi là thần đồng.
Trong suốt cuộc đời làm quan của mình, Nguyễn Trung Ngạn rất được trọng dụng. Mặc dù có lần ông bị giáng chức do cương trực can gián nhà vua, nhưng với tài năng của mình, ông lại được thăng chức.
Năm 1342, Nguyễn Trung Ngạn được tin tưởng giao trọng trách Đại doãn kinh sư, tức là quan đứng đầu quản lý kinh thành, và trở thành vị Đại doãn kinh sư nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử thành Thăng Long. Ở Hà Nội ngày nay còn 7 ngôi đình đền thờ Nguyễn Trung Ngạn. Các nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử ngày nay cũng cho rằng ông là vị quan có nhiều công trình tưởng niệm nhất ở Hà Nội.
Mộ danh nhân Nguyễn Trung Ngạn. (Ảnh từ youtube).
Nguyễn Trung Ngạn được người dân tưởng nhớ không chỉ bởi ông là quan đứng đầu kinh thành, mà còn là người liêm khiết, thương yêu dân chúng, làm nhiều điều tốt cho dân, vì vậy mà tiếng thơm muôn thuở. Ông xét xử các vụ việc, cũng như đưa ra các hình phạt rất công tâm khiến không ai bị oan hay bị xử phạt quá đáng, người dân thời đó ví ông như Bao Công.
Nguyễn Trung Ngạn cũng có công soạn sách Thực lục, ghi chép lại sử nhà Trần, cùng Trương Hán Siêu soạn sách Hoàng triều đại điển và bộ luật Hình thư. Ngoài ra, ông còn có tài làm thơ, được nhiều người đánh giá rất cao, Phan Huy Chú ca ngợi: “Lời thơ hùng hồn mạnh mẽ, sở đắc nhiều phong cách thơ của Đỗ Thiếu Lăng – tức Đỗ Phủ đời Đường”. Cố giáo sư Nguyễn Tài Cẩn có lời nhận xét: “Nguyễn Trung Ngạn cũng là người đầu tiên sáng tạo ra lối lục ngôn thể, mở đường cho thơ lục ngôn thể của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đời sau…”
Mặc dù có tài nhưng ông cũng nhiều tật. Đầu tiên là tính sơ suất làm ông ghi sai tước vị hầu của Bảo Vũ Vương năm 1326, khiến ông bị đuổi ra làm quan ngoài triều. Sau đó là tính kiêu ngạo, vì bị đuổi như vậy mà ông vẫn tự phụ làm bài thơ:
Giới Hiên tiên sinh lang miếu khí,
Diệu kinh dĩ hữu thốn ngưu chí.
Niên phương thập nhị thái học sinh,
Tài đăng thập lục sung đình thí.
Nhị thập hựu tứ nhập gián quan,
Nhị thập hựu lục Yên kinh sứ.
Dịch là:
Giới Hiên tiên sinh tài lang miếu(*),
Có chí nuốt trâu từ niên thiếu.
Tuổi mới mười hai thái học sinh,
Vừa đến mười sáu dự thi đình.
Hai mươi bốn tuổi làm quan gián,
Hai mươi sáu tuổi sứ Yên Kinh(**).
(*) Lang miếu ở đây có nghĩa là triều đình.
(**) Năm 26 tuổi, ông được lệnh đi sứ sang kinh đô nhà Nguyên.
Mãi tới sau này, trải qua nhiều thăng trầm hơn, thì tính tình của ông mới có nhiều biến chuyển.
Có tài năng như vậy, nên Nguyễn Trung Ngạn lập được nhiều công trạng cho đất nước, trong đó phải kể đến tài năng của ông trong việc bang giao.
Sứ nhà Nguyên hống hách bỗng trở nên ôn hòa lịch sự
Nói về việc bang giao bấy giờ, Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép như sau: “Mùa hạ, người Nguyên tranh chấp biên giới. Sai Hình bộ thượng thư, ty Hành khiển là Doãn Bang Hiến sang Nguyên tranh biện. Hiến mất trên đường đi, vua rất thương tiếc”.
Trong khi vụ việc tranh chấp biên giới chưa được giải quyết thì vào năm 1323, hoàng đế nhà Nguyên mất, Dã Tôn Thiết Mộc Nhi lên nối ngôi, ban chiếu thư đến Đại Việt báo tin vui, nhưng vẫn kèm theo một lời nhắc nhở như muốn răn đe:
“Mới đây kẻ thú thần ở Chiêm Thành có dâng biểu rằng bọn biên lại của khanh phát binh xâm lấn Chiêm Thành, ta lấy làm sốt ruột, không hiểu khanh vì cớ gì mà làm như vậy, khiến ta khó mà tin được. Ta làm vua cả thiên hạ, coi chỗ xa cũng như chỗ gần, miễn làm thế nào cho dân yên ổn, có chỗ làm ăn. Nhà ngươi phải thể theo ý ấy mà cấm ngăn chúng nó đừng làm loạn và lo giữ gìn dân sự trong nước, chớ quên lòng trung thuận đã có nhiều đời đối với nước ta. Vậy nay tỏ lời chiếu, phải nên tuân theo”.
Để tạo uy danh nước nước lớn trên bàn ngoại giao, vua Nguyên sai Lại bộ Thượng thư Mã Hợp Mưu và Lễ bộ Lang trung Dương Tông Thụy đi sứ đến Đại Việt. Sứ nhà Nguyên rất nghênh ngang, cưỡi ngựa đến tận cầu Tây Thấu Trì, trong khi đó theo quy định thì ai cũng chỉ được phép đi bộ vào.
Các quan được lệnh tiếp sứ dù đã cố thuyết phục suốt từ giờ Thìn đến giờ Ngọ (khoảng từ 8 giờ đến 12 giờ) nhưng không có kết quả, sứ nhà Nguyên muốn cưỡi ngựa đi thẳng tận vào trong.
Vua phải sai Thị ngự sử Nguyễn Trung Ngạn đến đón, Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép rằng: “Trung Ngạn lấy lẽ bẻ lại, Hợp Mưu đuối lý, phải xuống ngựa bưng chiếu đi bộ. Vua rất hài lòng”.
Sau đó ở các cuộc tiếp đón sứ nhà Nguyên không còn nghênh ngang như trước nữa, cuộc hội kiến trở nên suôn sẻ. Vua Trần Minh Tông tặng mỗi sứ thần nhà Nguyên một bài thơ, khen hai hai ông có lòng thành. Sau đó sứ nhà Nguyên là Lễ bộ Lang trung Dương Tông Thụy cũng có bài thơ đáp lại với lời lẽ ôn hòa lịch sự.
Nguyễn Trung Ngạn đã thể hiện tài trí của mình, không chỉ giúp Đại Việt giữ được uy danh, mà còn khiến sứ giả phải nể trọng, giúp cho việc bang giao giữ hai nước tốt đẹp.
Trường tiểu học Nguyễn Trung Ngạn ở Sài Gòn. (Ảnh từ wikimapia.org).
Hết lòng vì dân
Nguyễn Trung Ngạn không chỉ tài năng trong việc bang giao, mà còn hết lòng vì dân chúng. Có một câu chuyện về việc ông xét xử như thế này:
Khi làm việc ở Thẩm hình viện, Nguyễn Trung Ngạn lập Bình doãn đường để xét xử ngục tụng, có lần ở huyện giải lên một người tên là Đỗ Sinh, nghi phạm giết người cướp 10 lượng vàng. Thế nhưng thấy nghi phạm là người hết sức thật thà, ông nghi ngờ người này bị oan, thế nhưng mọi chứng cớ khi đó đều chứng tỏ nghi phạm chính là hung thủ.
Không để dân bị oan, ông cất công giả làm lái buôn để các nơi điều tra nhưng vẫn không có kết quả, ông mở rộng điều tra cố công tìm hung thủ, cuối cùng cùng tìm ra hung thủ thật sự, nghi phạm Đỗ Sinh được ông thưởng 1 lượng vàng để ăn học.
Khi làm Tào vận sứ lộ Khoái Châu, ông có sáng kiến lập ra các kho Tào thương để chứa thóc tô kịp thời cấp cho dân lúc đói kém. Sáng kiến này được nhà Vua đánh giá cao và xuống chiếu cho các lộ áp dụng.
Sau này, Nguyễn Trung Ngạn còn tiếp tục được thăng làm Hành khiển coi việc ở viện Khu mật, rồi Kinh lược sứ trấn Lạng Giang, Đại hành khiển, Thượng thư Hữu bật, Đại học sĩ, hầu ở toà Kinh Duyên, Trụ Quốc, Khai huyện bá rồi Thân Quốc công. Ông mất năm 1370, thọ hơn 80 tuổi.
Đánh giá về Nguyễn Trung Ngạn, công thần Trần Nguyên Đán, ông ngoại đại thi hào Nguyễn Trãi, có bài thơ như sau:
Cơ Hành bính bính Đại thôi ngôi,
Cảnh ngưỡng dân quy Hữu nhị đài.
Thành vật công thâm phù thái vận,
Kình thiên lực đại đĩnh lương tài.
Tùng quan nại tuyết thương nhan cựu,
Mai phán trùng xuân lão bút khai.
Lịch sự ngũ triều thiên tử thánh,
Tiệm nhiên trâm hốt diện công hoài (hoè).
Dịch nghĩa:
Sáng rực như sao Bắc Đẩu, cao vòi vọi, như núi Thái sơn,
Dân đều ngưỡng mộ Hữu nhị đài.
Việc đã thành, công càng sâu, giúp cho vận hội thái hoà,
Chống nổi trời, sức thật lớn, rõ bậc tài năng đĩnh đạc.
Như cây tùng không ngại tuyết, vẻ xanh vẫn như cũ,
Tựa cây mai lại gặp xuân, ngọn bút lão luyện muốn vịnh.
Trải thờ năm triều vua thánh,
Hiên ngang trâm hốt, xứng mặt Tam công.
Tại quê hương Hưng Yên của Nguyễn Trung Ngạn, ngày nay nhiều con đường, công trình, trường học được mang tên ông.