Cần phải tăng cường ứng dụng các bằng chứng dựa vào nghiên cứu để xây dựng các chương trình và chính sách y tế trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản- đó là nội dung được nhấn mạnh tại “Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về Nghiên cứu sức khỏe sinh sản và tình dục” do Bộ Y tế, Trường ĐH Y tế công cộng và Quỹ Dân số Liên hợp quốc tổ chức sáng nay 12/12 tại Hà Nội.
Tham dự hội nghị có các đại biểu từ Bộ y tế; tổ chức Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế …; các chuyên gia, các nhà quản lý, hoạch định chính sách đến từ các cơ quan Trung ương và các địa phương, các Viên nghiên cứu, Bệnh viện, trường Đại học trong cả nước.
Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về Nghiên cứu sức khỏe sinh sản và tình dục
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Việt Tiến nhấn mạnh: “Cần tăng cường nghiên cứu khoa học, phổ biến và ứng dụng các kết quả nghiên cứu, các tiến bộ khoa học, công nghệ để giải quyết các vấn đề đối với công tác dân số và chăm sóc sức khỏe sinh sản. Trong thời gian tới, cần duy trì mức sinh thấp hợp lí, giảm chênh lệch tỷ suất giới tính khi sinh, giảm tử vong mẹ, tử vong trẻ em đặc biệt là trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ nạo phá thai và tăng cường chăm sóc sức khỏe sinh sản cho vị thành niên, thanh niên, người cao tuổi và các nhóm dân tốc đặc thù (người nhiễm HIV, dân tộc thiểu số)…”
Cũng tại Hội nghị, bà Mandeep K.O’Brien – Quyền trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam đã chỉ ra rằng: “ Việt Nam đã bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng với số lượng thanh niên lớn nhất trong lịch sử từ trước đến nay. Chính vì vậy, cần có thêm nhiều nghiên cứu về sức khỏe tình dục và sinh sản của thanh niên để có thể cung cấp bằng chứng chính xác giúp xây dựng chương trình và chính sách đáp ứng được nhu cầu thực sự về sức khỏe tình dục và sinh sản của thanh niên…”
Số liệu của Bộ Y tế và các điều tra dân số khác cũng cho thấy, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể trong việc lồng ghép kế hoạch hóa gia đình vào dịch vụ y tế, đã củng cố được các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, một số nhóm dân số như vị thành niên, thanh niên và những người chưa kết hôn, dân tộc thiểu số và người cao tuổi còn gặp nhiều hạn chế trong việc tiếp cận thông tin và dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và tình dục.
Kết quả của “Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về Nghiên cứu sức khỏe sinh sản và tình dục” sẽ được sử dụng cho việc định hướng các nghiên cứu trong thời gian tới về lĩnh vực sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục ở Việt Nam, góp phần tiếp cận phổ cập chăm sóc sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản vào năm 2015.
Tại Hội nghị, Bộ Y tế, Trường ĐH Y tế Công cộng và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam cùng cam kết tiếp tục hợp tác chặt chẽ để đẩm bảo thành tựu và tính bền vững của hệ thống chăm sóc sức khỏe tình dục và sinh sản ở Việt Nam.