Năm 2001, Nhật Bản bắt đầu chương trình phát triển máy bay săn ngầm thế hệ mới XP-1 nhằm thay thế phi đội P-3C Orion. Cùng năm đó, Tập đoàn Công nghiệp nặng Kawasaki đã được chọn làm nhà thầu chính của dự án.
Thiết kế Kawasaki XP-1 sử dụng một số phần khung thân với thiết kế máy bay vận tải thế hệ mới thử nghiệm XC-1. Việc sử dụng các thành phần đó giúp giảm ít nhất 218 triệu USD. Ngày 28/9/2007, mẫu thử XP-1 cất cánh lần đầu thành công. Tháng 3/2010, Kawasaki đã chuyển giao 4 chiếc XP-1 cho Bộ Quốc phòng Nhật Bản thử nghiệm.
XP-1 được thiết kế thực hiện nhiều nhiệm vụ gồm: tuần tra biển, trinh sát, săn tàu ngầm, chống tàu mặt nước và tìm kiếm cứu nạn.
XP-1 dài 38m, sải cánh 35,4m, cao 12,1m, trọng lượng cất cánh tối đa 79,7 tấn.
Theo những thông tin ban đầu, XP-1 được trang bị hệ thống điện tử hàng không cực kỳ hiện đại gồm: hệ thống radar mạng pha điện tử chủ động Toshiba HPS-206; hệ thống phát hiện từ tính lạ; hệ thống phát hiện tín hiệu hồng ngoại. Với các hệ thống này cho phép XP-1 phát hiện mọi mục tiêu trên mặt biển và dưới mặt biển.
Tương tự máy bay săn ngầm trên thế giới, XP-1 cũng có một cái đuôi lạ thường. Đó là nơi đặt hệ thống phát hiện từ tính, nhằm tránh ảnh hưởng tới hệ thống điện tử trên máy bay.
XP-1 được thiết kế khoang trong thân và 8 giá treo trên cánh mang được tổng cộng 9 tấn vũ khí gồm: tên lửa không đối hạm AGM-84 Harpoon, ASM-1C, AGM-65; ngư lôi chống ngầm MK-46, Type 97; thủy lôi; bom.
Trong ảnh là máy bay săn ngầm XP-1 mang tên lửa hành trình chống tàu ASM-1C có tầm bắn 180km, độ cao bay 5-6m, dùng đầu tự dẫn radar chủ động.
XP-1 trang bị 4 động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy F7-10 cho phép đạt tốc độ tối đa 996km/h, tầm bay 8.000km và trần bay 13.520m.
Với XP-1, năng lực chống tàu ngầm – tàu mặt nước của Quân Phòng vệ Mặt biển Nhật Bản sẽ được nâng cao đáng kể.