1945: Cuộc nhảy dù mở màn sứ mệnh lịch sử, hé lộ cách Bác Hồ chinh phục biệt đội đặc nhiệm Mỹ

Minh Nhật (Tổng hợp) |

Năm 1945, giữa rừng Tân Trào, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp biệt đội Mỹ bằng bữa cơm muối vừng – mở ra chương lịch sử mà nhiều nhà sử học sau này gọi là “vận hội bị Washington bỏ lỡ”.

 - Ảnh 1.

Vào một đêm tháng 7/1945, giữa rừng già Tuyên Quang, một chiếc dù trắng bị gió cuốn quấn vào tán cây đa cổ thụ. Treo lơ lửng giữa tầng lá ấy là Thiếu tá Allison Thomas, chỉ huy Biệt đội OSS Deer Team (Con Nai) – nhóm đặc nhiệm đầu tiên của tình báo Mỹ đặt chân xuống căn cứ Việt Minh.

Trong cuốn hồi ký "Why Vietnam? Prelude to America's Albatross", Đại tá Archimedes L. A. Patti - sĩ quan tình báo thuộc Văn phòng Dịch vụ Chiến lược (OSS) của Mỹ, người từng có mặt tại Việt Nam vào năm 1945 kể lại rằng, sau hơn 30 phút mắc kẹt, cuối cùng ông Thomas cũng được đưa xuống đất nhờ những người lính Việt Minh đang đợi bên dưới. Đón ông là một biểu ngữ viết tay bằng tiếng Anh: “Welcome to Our American Friends”.

Sự kiện tưởng chừng nhỏ bé này lại chính là khoảnh khắc mở màn cho một vận hội từng được đánh giá là “bị nước Mỹ bỏ lỡ” – như cách một số nhà sử học gọi. Bởi lẽ, từ cuộc nhảy dù đó, Hoa Kỳ và Việt Minh – hai lực lượng tưởng như không thể gặp nhau – đã từng là đồng minh. Và giữa họ, đã từng có những cái bắt tay thật sự.

 - Ảnh 2.

Năm 1945, Thế chiến thứ hai bước vào hồi kết. Ở châu Âu, phát xít Đức đã đầu hàng. Còn tại châu Á, phát xít Nhật tuy chưa bị đánh bại hoàn toàn, nhưng đang lâm vào thế tuyệt vọng sau hàng loạt thất bại quân sự.

Trong bối cảnh ấy, các lực lượng Đồng minh – đặc biệt là Mỹ – tăng cường phối hợp với lực lượng kháng chiến bản địa tại Đông Dương để chống Nhật, đồng thời chuẩn bị cho trật tự hậu chiến.

Tại Việt Nam, dưới ách đô hộ kéo dài của thực dân Pháp và nay là sự hiện diện của phát xít Nhật, khát vọng độc lập dân tộc đã sục sôi hơn bao giờ hết. Từ chiến khu Việt Bắc, Mặt trận Việt Minh – do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo – nổi lên như một lực lượng chính trị và quân sự có tổ chức, có tầm ảnh hưởng, và đặc biệt là có quyết tâm giành độc lập.

Cũng trong thời điểm đó, Văn phòng Dịch vụ Chiến lược Hoa Kỳ (OSS) bắt đầu thiết lập mối liên hệ với các lực lượng kháng chiến tại Đông Dương để phối hợp chống phát xít Nhật. Trong số đó, Việt Minh – do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo – nhanh chóng nhận được sự quan tâm đặc biệt nhờ những đánh giá tích cực từ chính các sĩ quan Mỹ từng trực tiếp tiếp xúc và làm việc với lực lượng này.

Chính trong thời khắc ấy, một sứ mệnh đặc biệt được khởi động: Nhóm đặc nhiệm OSS mang mật danh Con Nai nhận lệnh nhảy dù xuống chiến khu Tân Trào để huấn luyện cho quân Việt Minh và thiết lập liên lạc với Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong bài viết “Biệt đội Con Nai và một vận hội bị Mỹ bỏ lỡ”, báo QĐND cho biết, hai tháng trước khi nhóm Con Nai chính thức đổ bộ, vào tháng 5 năm 1945, một sĩ quan Mỹ khác đã âm thầm nhảy dù xuống Tuyên Quang: Trung úy Daniel “Dan” Phelan, thuộc lực lượng hỗ trợ không-bộ AGAS (Air Ground Aid Section).

Ông không phải thành viên nhóm Con Nai, cũng không tham gia huấn luyện quân sự. Nhiệm vụ của ông là tiền trạm, khảo sát đường băng dã chiến, thiết lập liên lạc ban đầu và – điều quan trọng nhất – đánh giá chính trị.

Từ chiến khu, Phelan gửi điện về Côn Minh, báo cáo thẳng với OSS rằng Việt Minh không phải “cộng sản cực đoan” như nhiều người ở Washington lo ngại, mà là “những người yêu nước, xứng đáng được tin tưởng và ủng hộ hoàn toàn” – theo báo Quân đội Nhân dân, bài “Biệt đội Con Nai và một vận hội bị Mỹ bỏ lỡ”.

Chính những thông tin này đã góp phần thúc đẩy kế hoạch hợp tác trực tiếp giữa OSS và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

 - Ảnh 3.

Ngày 17/7/1945, nhóm Con Nai do Thiếu tá Allison Thomas chỉ huy nhảy dù xuống Tân Trào.

Trong cuốn hồi ký "Why Vietnam? Prelude to America's Albatross", Đại tá Archimedes L. A. Patti cho biết, Thiếu tá Thomas quyết định đích thân trinh sát tình hình trước khi đưa nhóm Con Nai tham gia cùng người Việt hay người Pháp.

Ông tổ chức một nhóm tiền trạm gồm chính mình, Trung úy Montfort của quân đội Pháp, hai binh sĩ Mỹ, và hai người Việt được cho là trung sĩ trong quân đội Pháp.

Vào chiều muộn ngày 16/7, nhóm này đã nhảy dù xuống khu vực gần làng Kim Lung, cách Tuyên Quang khoảng 20 dặm về phía đông. Cuộc nhảy dù diễn ra suôn sẻ, ngoại trừ việc ông Thomas, Montfort và một binh sĩ Mỹ đáp xuống các tán cây và phải nhờ người giúp đỡ mới xuống được.

Theo lời kể của Thomas, ông đã được đón chào bởi khoảng 200 người có vũ trang gồm súng trường Pháp, một vài khẩu Bren, súng tiểu liên Tommy, carbine và Sten. Thomas mô tả đây là “một ủy ban tiếp đón vô cùng ấn tượng.”

 - Ảnh 4.

Báo Quân Đội Nhân dân (QĐND) cho biết, mặc dù đang ốm và bộn bề công việc ở thời điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn trực tiếp chỉ đạo chuẩn bị sân bay dã chiến, lán trại tiếp đón, và dành thời gian tiếp Thiếu tá Thomas vào ngày hôm sau.

Trong cuộc gặp này, Bác Hồ nói rõ rằng mục tiêu của Việt Minh là đánh đổ ách thống trị nước ngoài, giành độc lập, tự do cho đất nước. Đồng thời, Người nhờ viên chỉ huy Mỹ chuyển lời tới phía Pháp: Hồ Chí Minh sẵn sàng đàm phán với đại diện Pháp ở Côn Minh hoặc Bắc Kỳ.

Theo báo cáo của Thomas gửi về Mỹ, ông cho biết ấn tượng đầu tiên về Hồ Chí Minh là sự bình dị và cởi mở. Ông ăn mặc giản dị, nói chuyện với thái độ ôn hòa, dễ mến, và cực kỳ sắc sảo trong việc nắm bắt tình hình chính trị.

Một buổi tối, Hồ Chí Minh mời các thành viên OSS cùng dùng cơm. Bữa ăn đơn sơ gồm cơm trắng, muối vừng, măng rừng và nước trà. Dưới ánh đèn dầu leo lét, Thomas viết trong nhật ký rằng “đó là một trong những bữa ăn khiêm tốn nhưng ấm áp nhất mà tôi từng có trong đời binh nghiệp của mình”.

Sau bữa ăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu chia sẻ về khát vọng độc lập dân tộc. Ông bày tỏ rằng người Việt Nam không muốn trở thành thuộc địa của bất kỳ thế lực nào nữa. Người Việt khao khát tự do, và nếu Hoa Kỳ thực sự ủng hộ các giá trị tự do, dân chủ, thì không có lý do gì hai bên lại không thể trở thành bạn bè.

Trong hồi tưởng sau này, Thiếu tá Thomas cũng nhiều lần nhắc lại ấn tượng sâu sắc về Hồ Chí Minh: “Ngày ấy, cũng như bây giờ, Hồ Chí Minh là một người Cộng sản. Nhưng ông và Hoa Kỳ lúc đó là đồng minh, không phải là kẻ thù như hôm nay”.

Henry Prunier – người Mỹ gốc Pháp, 23 tuổi – được giao làm phiên dịch và liên lạc viên chính giữa nhóm Con Nai và Việt Minh. Trong những hồi ức của mình, ông kể rằng nhiều thành viên trong nhóm ban đầu không có thiện cảm với lực lượng kháng chiến của Việt Nam. Thế nhưng, mọi định kiến ấy nhanh chóng tan biến.

“Khi chúng tôi vừa hạ cánh, tôi thấy một biểu ngữ bằng tiếng Anh treo giữa rừng: ‘Welcome to Our American Friends’. Điều đó khiến chúng tôi rất xúc động. Họ đã chuẩn bị cho chúng tôi đến mức đó sao?” – Ông Prunier chia sẻ trong một cuộc phỏng vấn được Báo Quân đội Nhân dân ghi lại.

 - Ảnh 5.

Trong bữa cơm đầu tiên cùng Bác Hồ, ông Prunier nhớ lại rằng họ chỉ ăn cơm trắng với muối vừng, dưới ánh đèn dầu giữa rừng Tân Trào.

Điều khiến ông ấn tượng nhất không phải là thức ăn đơn sơ, mà chính là con người tiếp đón họ: “Ông ấy (Bác Hồ) không giống một nhà cách mạng sắt đá như chúng tôi hình dung, mà là một con người bình dị, có tác phong lịch thiệp, nói tiếng Anh, tiếng Pháp trôi chảy và hiểu rất rõ về Roosevelt cũng như nước Mỹ”.

Không chỉ bị thuyết phục bởi sự hiểu biết, các sĩ quan Mỹ còn xúc động trước tình cảm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho họ. Trước khi chia tay, Bác đã tặng cho Prunier một bức tranh thêu, kèm theo lời đề tặng. Prunier kể lại: ông đã giữ món quà đó suốt nhiều năm, và với ông, “đó là một biểu tượng về sự tôn trọng lẫn nhau”.

Theo lời kể của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, khoảng cuối tháng 7, đầu tháng 8/1945, dù đang ốm nặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn chỉ thị lựa chọn 200 chiến sĩ ưu tú để nhóm Con Nai huấn luyện sử dụng vũ khí và thiết bị vô tuyến điện mà Đồng minh đã tiếp tế.

Đây chính là lực lượng nòng cốt cho sự ra đời của “Đại đội Việt - Mỹ” – một kết quả từ sự thỏa thuận giữa Hồ Chí Minh với tướng Claire Lee Chennault tại Côn Minh trước đó.

Cũng theo Đại tướng Giáp, trong những ngày đó, Hồ Chí Minh vẫn duy trì liên lạc thường xuyên với “Đại bản doanh” của Đồng minh ở Côn Minh, đặc biệt là với hai sĩ quan Mỹ Fenn và Tann – những người từng nhiệt tình giúp đỡ Bác khi còn ở Trung Quốc.

Trung úy Dan Phelan, người đã đến Việt Bắc trước nhóm Con Nai với vai trò tiền trạm, cũng gửi điện báo về cho OSS rằng Hồ Chí Minh là một người yêu nước, “đáng được tin cậy và ủng hộ hoàn toàn”.

Chỉ ít ngày sau khi OSS nhảy dù xuống Tân Trào, từ lòng tin được thiết lập, một chương trình huấn luyện quân sự bí mật đã bắt đầu – đặt nền móng cho mối quan hệ hợp tác ngắn ngủi nhưng mang tính bước ngoặt giữa OSS và lực lượng Việt Minh.

Deer Team (Con Nai) là một nhóm đặc nhiệm tình báo thuộc Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ (OSS) – tiền thân của CIA.

Được thành lập vào tháng 5 năm 1945, nhóm Con Nai gồm 7 thành viên với nhiệm vụ phối hợp cùng Việt Minh chống phát xít Nhật trong giai đoạn cuối Thế chiến II.

Thành phần biệt đội bao gồm:

Thiếu tá Allison K. Thomas – chỉ huy.

Thượng sĩ William Zielski – chuyên viên vô tuyến.

Henry Prunier – liên lạc viên kiêm phiên dịch tiếng Pháp.

Rene Defourneaux, Lawrence Vogt, Aaron Squires, Paul Hoagland (y sĩ).

Họ được giao nhiệm vụ huấn luyện du kích Việt Minh sử dụng súng bộ binh, bazooka, chiến thuật phục kích và thiết lập liên lạc vô tuyến. Tất cả hoạt động đều diễn ra tại chiến khu Tân Trào, dưới sự phối hợp trực tiếp với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại