Xuất khẩu nghêu của Việt Nam đang chứng kiến đà tăng trưởng ấn tượng, không chỉ về mặt kim ngạch mà còn đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển thủy sản bền vững, thân thiện với môi trường và tạo sinh kế ổn định cho hàng trăm nghìn lao động vùng ven biển.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, tính đến hết tháng 4/2025, kim ngạch xuất khẩu nghêu của Việt Nam đạt hơn 37 triệu USD, tăng 44% so với cùng kỳ năm trước.
Thông tin từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, Liên minh châu Âu (EU) tiếp tục là thị trường nhập khẩu nghêu lớn nhất của Việt Nam. Trong đó, Italy dẫn đầu với kim ngạch đạt 10 triệu USD (tính đến 15/5/2025), tăng 39% so với cùng kỳ năm ngoái. Tây Ban Nha đứng thứ hai với gần 9 triệu USD, tương đương mức của năm trước.
Đáng chú ý, Trung Quốc vươn lên vị trí thứ ba, với mức tăng trưởng mạnh: 381%, đạt hơn 8 triệu USD.
Ngoài ra, thị trường Mỹ và Hàn Quốc cũng đang ghi nhận tốc độ tăng trưởng tích cực, mở rộng dư địa xuất khẩu trong năm 2025.
Nghêu được đóng gói xuất khẩu (ảnh minh hoạ).
Tính đến tháng 5/2025, nghêu Việt Nam đã có mặt tại 49 thị trường trên toàn thế giới. Sự bền bỉ trong chất lượng sản phẩm, khả năng truy xuất nguồn gốc và việc đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế chính là chìa khóa giúp mặt hàng này giữ vững lợi thế cạnh tranh, đặc biệt tại các thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản, Úc…
Phát triển bền vững bảo vệ môi trường
Hiện Việt Nam có nhiều vùng nuôi đạt chứng nhận quốc tế như: Bến Tre – chứng nhận MSC (Hội đồng Quản lý Biển) từ năm 2009, là vùng nuôi nghêu đầu tiên tại châu Á đạt chuẩn này; Tiền Giang, Trà Vinh, Nam Định, Ninh Bình – đạt chứng nhận ASC (Hội đồng Quản lý Nuôi trồng Thủy sản).
Các chứng nhận này được xem là “giấy thông hành” giúp nghêu Việt chinh phục những thị trường yêu cầu cao về tính bền vững và môi trường.
Theo các chuyên gia không chỉ có giá trị kinh tế, nghêu còn được đánh giá cao về mặt sinh thái. Là loài sinh vật lọc nước tự nhiên, nghêu giúp cải thiện chất lượng môi trường đáy biển, kiểm soát tảo, duy trì hệ sinh thái vùng bãi triều. Mô hình nuôi nghêu không cần hóa chất, kháng sinh hay thức ăn công nghiệp giúp giảm thiểu ô nhiễm, phù hợp với định hướng kinh tế xanh và tuần hoàn.
Tại một số địa phương như Cồn Bửng (Bến Tre), mô hình kết hợp nuôi nghêu – rừng ngập mặn còn giúp chống xói lở, bảo vệ bờ biển và góp phần hấp thụ khí carbon – những yếu tố then chốt trong thích ứng với biến đổi khí hậu.
Nghêu là đối tượng nuôi chủ lực ở nhiều tỉnh ven biển với khoảng 200.000 lao động tham gia trực tiếp và gián tiếp vào chuỗi giá trị: từ nuôi trồng, thu hoạch, sơ chế, chế biến đến xuất khẩu.
Sự phát triển của các hợp tác xã nuôi nghêu cộng đồng đã và đang giúp người dân nâng cao thu nhập, giảm phụ thuộc vào nghề khai thác biển truyền thống, vốn ngày càng bấp bênh do cạn kiệt nguồn lợi và ảnh hưởng từ biến đổi khí hậu.
Xuất khẩu nghêu phù hợp với Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, trong đó nhấn mạnh phát triển thủy sản bền vững, có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường.
Các mô hình nuôi nghêu đạt chuẩn quốc tế hiện đang được FAO, WWF và nhiều tổ chức quốc tế hỗ trợ, đưa Việt Nam trở thành điển hình về nuôi trồng thủy sản bền vững ở Đông Nam Á.
Từ một sản phẩm thủy sản bình dị, nghêu đã vươn mình trở thành một trong những mặt hàng chiến lược, góp phần định vị thương hiệu thủy sản Việt Nam trên thị trường thế giới. Với định hướng đúng đắn, đầu tư nghiêm túc vào chất lượng và chứng nhận quốc tế, Việt Nam hoàn toàn có thể biến nghêu thành “ngọc trai” của kinh tế xanh ven biển, mang lại lợi ích lâu dài cho kinh tế, cộng đồng và môi trường.