Sau gần 27 năm, Microsoft cuối cùng đã khai tử Internet Explorer. Dù từng là trình duyệt mang tính biểu tượng của Microsoft, nhưng IE đã trải qua một con đường dài và gập ghềnh.
Thay vì tập trung vào các tiêu chuẩn web, Microsoft đã xây dựng công nghệ độc quyền như VBScript và JScript, một giải pháp thay thế cho JavaScript. Mục đích của Microsoft không phải là tạo ra một môi trường web tốt hơn cho tất cả mọi người, mà là thống trị thế giới web theo cách mà công ty đã thống trị hệ điều hành máy tính.
Microsoft từng bị kiện vì hành vi chống cạnh tranh khi kết hợp Internet Explorer với Windows. Năm 2003, Internet Explorer có tỷ lệ sử dụng là 95%, nhưng Mozilla Firefox ra mắt vào năm 2004 và Google Chrome ra mắt vào năm 2008 đã thay đổi các con số này.
Kết hợp phần mềm với hệ điều hành là một cách tuyệt vời để khiến mọi người sử dụng phần mềm đó. Khi đã có sẵn phần mềm, nhiều người sẽ không muốn tìm đến các phần mềm khác. Tuy nhiên, đôi khi cũng có trường hợp ngoại lệ và khi người dùng đã tìm thấy thứ miễn phí tốt hơn hàng có sẵn, thì họ sẽ thay đổi sở thích rất nhanh chóng.
Đó chính xác là những gì đã xảy ra. Internet Explorer cuối cùng đã bị xem là “trình cài đặt Google Chrome”, vì khi thiết lập một PC mới, điều đầu tiên nhiều người sẽ làm là mở IE, cài đặt Chrome và không bao giờ chạm vào biểu tượng chữ E màu xanh đó nữa.
Internet Explorer 1
Internet Explorer sản phẩm sáng tạo của Thomas Reardon và nó đã được phát hành như một phần của Microsoft Plus! Dành cho Windows 95, gói phần mềm 49,99 USD bao gồm “Internet Jumpstart Kit”, một game Space Cadet Pinball và một số tiện ích như DriveSpace 3 và Compression Agent. Microsoft Internet Explorer ra mắt ngày 17 tháng 8 năm 1995, bởi một nhóm chỉ 6 thành viên.
Ngay sau đó, Internet Explorer 1.5 được phát hành, bổ sung thêm hỗ trợ hiển thị bảng. Đây cũng là lúc Microsoft bắt đầu đóng gói phần mềm trình duyệt IE cùng với Windows NT.
Internet Explorer 2
Quá trình phát triển IE tiếp theo diễn ra khá nhanh chóng, vì Internet Explorer 2 được phát hành vào ngày 22 tháng 11 năm 1995. Trước đó, bản thử nghiệm IE2 được phát hành vào tháng 10, tức là chỉ vài tháng sau khi phiên bản đầu tiên ra mắt. Dù phiên bản đầu tiên chỉ dành cho Windows 95 và Windows NT mới hơn, nhưng Internet Explorer 2 đã bổ sung hỗ trợ cho Windows 3.1 cũ hơn và Macintosh System 7.0.1.
Có một số tính năng chính được thêm vào mà chúng ta đã quen thuộc trong web ngày nay, chẳng hạn như hỗ trợ JavaScript, cookie HTTP, SSL, v.v. sau đó nâng cấp lên hỗ trợ HTML3 và bạn có thể nhập bookmark từ Netscape.
Internet Explorer 2.1 được phát hành cho Mac vào tháng 4 năm 1996 và hỗ trợ nhúng các tệp AVI, QuickTime, AIFF, MIDI và WAV vào trang web.
Internet Explorer 3
Ngày 13 tháng 8 năm 1996 là thời điểm Internet Explorer 3 được phát hành. Trong khi Internet Explorer 2 là phiên bản đầu tiên hỗ trợ Mac, đây là phiên bản đầu tiên đi kèm với Mac và Mac OS 8.
Tại thời điểm này, IE vẫn đang cố gắng đuổi theo Netscape và sự cạnh tranh giữa hai bên bắt đầu nóng lên. Một thứ được bổ sung trong IE3 là hỗ trợ CSS hay Cascading Stylesheets. Ngoài ra, còn có hỗ trợ cho ActiveX và các cách điều hướng trang web hiện đại hơn.
Đây cũng là lúc Microsoft giới thiệu JScript, phiên bản JavaScript của riêng họ. IE3 cũng đi kèm với rất nhiều công cụ, như Internet Mail và News, Windows Address Book, Microsoft Comic Chat, RealPlayer, NetMeeting và Windows Media Player. Hầu hết những thứ đó không còn tồn tại nữa.
Internet Explorer 4
Phát hành vào tháng 9 năm 1997 cho Windows, tháng 1 năm 1998 cho Mac và tháng 3 năm 1998 cho Unix, Internet Explorer 4 là lúc mà cái gọi là cuộc chiến trình duyệt bắt đầu nóng lên. Vào năm 1998, không ai đạt được tốc độ gigabit mà chúng ta thường thấy bây giờ. Hồi đó, chúng ta truy cập mạng bằng cách dial-up. Chúng ta phải chờ để một hình ảnh độ phân giải thấp được hiển thị. Tất nhiên là không thể xem video hay download mọi phần mềm trực tuyến nhanh chóng. Đó là một chặng đường dài so với ngày nay.
Trình duyệt web của Netscape đã từng đứng đầu về tỷ lệ người sử dụng trong các trình duyệt web, nhưng nó đã mất phần lớn thị phần của mình vào tay Internet Explorer trong Chiến tranh trình duyệt web lần thứ nhất.
Trong khi Netscape không yêu cầu các OEM kết hợp trình duyệt của họ với Windows, Microsoft khuyến khích mạnh mẽ các OEM giúp phát triển Internet Explorer và tích cực cố gắng ngăn họ cài sẵn Netscape, thậm chí ngăn họ hiển thị biểu tượng của trình duyệt khác trên màn hình.
Đây là lúc Bộ Tư pháp Hoa Kỳ vào cuộc. Cuối năm 1999, Microsoft bị nghi vấn đang hoạt động theo cách độc quyền. Năm tiếp theo, tòa án ra lệnh rằng Microsoft phải được tách thành hai: một công ty sản xuất Windows và một công ty khác sản xuất phần mềm. Microsoft đã kháng cáo và vào năm 2001, họ không còn nghĩa vụ phải tách công ty.
Quay lại Internet Explorer 4, nó đã bổ sung hỗ trợ Active Desktop, cho phép thêm nội dung HTML. Khoảng thời gian này, Microsoft đã nghĩ đến việc sử dụng HTML ở mọi nơi, nó được đóng gói với Microsoft Chat 2.0, Outlook Express, NetMeeting, FrontPage Express 2.0 và RealPlayer.
Đây cũng là lúc công cụ Trident ra mắt và đó là công cụ trình duyệt được sử dụng suốt dòng đời còn lại của IE.
Internet Explorer 5
Microsoft Internet Explorer 5 ra mắt vào ngày 18 tháng 3 năm 1999. IE5 mang đến những điểm mới như AutoComplete, tích hợp Hotmail, mục ưa thích ngoại tuyến, khả năng lưu các trang dưới dạng MHTML, History Explorer Bar và Search Explorer Bar.
Trên Windows, IE5 yêu cầu tối thiểu bộ xử lý Intel 486DX cùng với 37 MB RAM. Đối với Mac, bạn cần bộ xử lý PowerPC và RAM 8 MB.
Internet Explorer 6
Internet Explorer 6 được phát hành vào ngày 24 tháng 8 năm 2001, khiến năm 2000 trở thành năm đầu tiên không có bản phát hành Internet Explorer mới. Đây cũng là bản cuối cùng mà chúng ta thấy cho đến năm 2006 và là bản đầu tiên không có cho Mac. Thỏa thuận của Microsoft với Apple đã hết hạn và Apple quyết định đi tiếp với trình duyệt Safari nội bộ của mình.
IE6 đã được thiết kế lại, vì nó được phát hành trước Windows XP không lâu. Windows XP đã có một ngôn ngữ thiết kế mới, được gọi là Luna. Ngoài ra, cũng có những cải tiến đối với HTML và CSS.
IE6 đánh dấu thời kỳ đỉnh cao của Internet Explorer. Trong 5 năm IE6 là phiên bản hiện tại của trình duyệt này, nó đã đạt 90% tỷ lệ sử dụng, và IE nói chung đạt 95%. Vào thời điểm này, Netscape đã được AOL mua lại, nhưng vẫn tiếp tục là trình duyệt mang nhãn hiệu Netscape cho đến năm 2008.
IE6 là phiên bản cuối cùng của trình duyệt được cung cấp độc lập với Windows. Trong tương lai, Internet Explorer sẽ chỉ đi kèm với Windows. Ngày nay, chúng ta đã quen với việc trình duyệt của mình tự cập nhật khi chúng ta không để ý đến, nhưng lúc bấy giờ, bạn thực sự phải chọn cập nhật trình duyệt của mình lên một bản mới hơn, hoặc bạn có thể chọn không cập nhật.
Internet Explorer 7
Internet Explorer 7 được phát hành vào ngày 18 tháng 10 năm 2006 và Internet Explorer 6 vẫn là phiên bản phổ biến nhất của IE trong một năm sau đó. Bản phát hành này là một cột mốc quan trọng, vì đây là lần đầu tính năng tab có mặt. Ngày nay, thật khó để tưởng tượng một trình duyệt web trông như thế nào nếu không có tab. Một tính năng mới quan trọng khác là hỗ trợ RSS. Hệ điều hành đầu tiên được cài đặt sẵn IE7 là Windows Vista.
Trình duyệt đã thêm Bộ lọc lừa đảo (Phishing Filter), về cơ bản sẽ kiểm tra trang web bạn truy cập và so sánh với danh sách các trang web lừa đảo được biết đến. Nó không hoàn hảo, nhưng đó là một bước tiến trong tăng cường bảo mật trình duyệt.
Internet Explorer 8
IE8 ra mắt vào ngày 19 tháng 3 năm 2009 và được cài sẵn trên Windows 7 khi hệ điều hành này được phát hành vào cuối năm đó. Giống như IE7, trình duyệt này hỗ trợ nhiều đời Windows cũ hơn, như Windows XP SP2.
Đây là phiên bản Internet Explorer đầu tiên có tính năng duyệt InPrivate. Về cơ bản, khi bạn đang sử dụng chế độ InPrivate, lịch sử trình duyệt sẽ không lưu lại quá trình duyệt web của bạn. Đây là tính năng phổ biến ngày nay và thương hiệu InPrivate vẫn tồn tại. Một tính năng khác được giới thiệu là SmartScreen. Trong khi Phishing Filter kiểm tra các trang web dựa trên danh sách đã biết, SmartScreen kiểm tra các site lừa đảo và nếu có dấu hiệu, trang web đó sẽ được gửi đến Microsoft.
Các công cụ dành cho nhà phát triển đã ra mắt với IE8, cho phép nhà phát triển gỡ lỗi trang web từ bên trong trình duyệt.
Internet Explorer 9
Thời gian phát hành của Internet Explorer 9 không trùng với phiên bản Windows mới. Nó ra mắt vào ngày 14 tháng 3 năm 2011, hỗ trợ Windows Vista SP2, Windows 7 và Windows Phone 7.5 .
Tính năng đáng chú ý nhất là hỗ trợ HTML5 và CSS3. Đây là những nền tảng cho web hiện đại. Dù được giới thiệu cách đây 14 năm, nhưng HTML5 vẫn được sử dụng cho đến ngày nay.
Internet Explorer 10
IE10 được phát hành vào ngày 4 tháng 9 năm 2012, cùng với Windows 8 và cũng trùng với sự ra mắt của dòng sản phẩm Surface PC, bao gồm Surface RT và Surface Pro. Thay đổi lớn nhất với Internet Explorer 10 là nó có hai bản build riêng biệt trong Windows 8. Một là Internet Explorer trên desktop thông thường mà chúng ta đều biết và… ghét, sau đó có một ứng dụng Metro mới. Metro là phong cách thiết kế mới cho Windows 8.
Với Windows 8, Microsoft đã khai tử Start Menu, thay thế nó bằng Start Screen bao gồm các ô. Một trong những ô đó là biểu tượng desktop, sẽ đưa bạn trở lại màn hình chính. Nếu bạn khởi chạy ứng dụng Win32 truyền thống, ứng dụng này sẽ khởi chạy trên desktop và nó hoạt động chính xác như cách bạn mong đợi. Nếu khởi chạy một ứng dụng Metro, thường đến từ Windows Store, nó sẽ khởi chạy toàn màn hình và bạn phải quản lý bằng cử chỉ. Không còn dấu X để đóng một ứng dụng với Metro; bạn phải biết kéo ứng dụng xuống từ đầu màn hình.
Hơn nữa, bạn không thể truy cập các ứng dụng Metro từ môi trường desktop. Hai thứ này hoàn toàn tách biệt. Microsoft đã chứng kiến cuộc cách mạng của Apple với iPhone và sau đó là iPad. Hãng cho rằng tương lai của máy tính là cảm ứng, nhưng lại thực hiện một cách tiếp cận hoàn toàn sai lầm.
Metro Internet Explorer là chương trình sẽ khởi chạy nếu bạn mở nó từ Start Screen. Nếu bạn mở nó từ màn hình desktop, bạn sẽ có được Internet Explorer cổ điển. Điều tồi tệ nhất là nếu bạn thay đổi trình duyệt mặc định của mình, bạn sẽ không bao giờ thấy Metro Internet Explorer nữa. Ngay cả khi mở nó từ Start Screen thì cũng sẽ mở ra IE cổ điển.
IE10 cũng là phiên bản đầu tiên có tích hợp Adobe Flash, thay vì yêu cầu người dùng cài đặt như tiện ích bổ sung. Đây cũng là phiên bản cuối cùng có thương hiệu đầy đủ “Windows Internet Explorer” mà Microsoft đã sử dụng kể từ IE7. Bắt đầu với IE11, nó chỉ được gọi là Internet Explorer.
Internet Explorer 11
Internet Explorer 11 ra mắt vào ngày 17 tháng 10 năm 2013 và được cài trong Windows 8.1. Đến thời điểm này, IE vẫn có hành vi kỳ lạ là tạo hai ứng dụng khác nhau có thể khởi chạy tùy thuộc vào nơi bạn khởi chạy chúng và trình duyệt mặc định của bạn là gì. Tuy nhiên, Windows đã thay đổi rất nhiều. Nỗ lực trong Windows 8.1 là sửa chữa sai lầm của Windows 8, vì vậy dấu X quen thuộc đã được thêm vào để đóng các ứng dụng Metro, nút Start được thêm trở lại để đưa bạn về Start Screen và có thể truy cập các ứng dụng Metro từ môi trường máy tính để bàn.
Hầu hết các tính năng mới trong IE11 đều là cải tiến, một điểm lớn là hỗ trợ tốt hơn cho màn hình DPI cao. Màn hình độ phân giải cao lúc này vẫn còn mới mẻ và Windows phải mất một thời gian để bắt kịp điều đó.
Microsoft Edge – Spartan
Project Spartan: Beyond Browsing
Tại sự kiện công bố Windows 10, Microsoft cũng đã công bố Project Spartan, trình duyệt web thế hệ tiếp theo của hãng. Project Spartan được lên kế hoạch với một số tính năng sáng tạo, chẳng hạn như khả năng đánh dấu các trang web bằng bút cảm ứng và lưu chúng. Nó cũng sẽ được tích hợp Cortana và đi kèm với chế độ Reading View mới và được hứa hẹn là sẽ nhanh hơn.
Microsoft Edge ra mắt vào ngày 29 tháng 7 năm 2015 như một phần của Windows 10. Bản thân Windows 10 đã là một sự thay đổi lớn trong cách Windows được phát triển và phân phối.
Công ty đã gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình khai tử Windows XP, họ nhận ra rằng họ đang cạnh tranh với chính mình. Windows 10 được công bố là bản nâng cấp miễn phí cho tất cả các thiết bị chạy Windows 7, Windows 8.1 và Windows Phone 8.1. Với Windows 10, các bản cập nhật sẽ được miễn phí trong suốt thời gian hoạt động của thiết bị.
Toàn bộ ý tưởng đằng sau chiến lược này là không còn cạnh tranh với chính mình nữa. Microsoft muốn mọi người đều sử dụng Windows 10. Do đó, Edge là trình duyệt mới đầu tiên của Microsoft không tương thích ngược với các phiên bản Windows cũ hơn. Đây là trình duyệt dành riêng cho Windows 10.
Khi Project Spartan trở thành Microsoft Edge, logo vẫn là chữ E màu xanh, nhưng việc đổi thương hiệu là cần thiết vì cái tên IE đã trở nên hoen ố theo năm tháng. Ý tưởng đằng sau biểu tượng mới là tuy trông khác lạ, nhưng vẫn đủ quen thuộc đối với những người dùng chỉ biết nhấp vào chữ E màu xanh lam để truy cập internet.
Microsoft Edge – Anaheim
Edge đã không thu hút được người dùng theo cách mà Microsoft mong đợi. Thời gian này, gần như mọi thứ trên mạng đều được xây dựng cho Chrome, trình duyệt của Google.Thay vì cố gắng đánh bại đối thủ, Microsoft đã quyết định tham gia cùng họ.
Vào tháng 12 năm 2018, Microsoft công bố ý định xây dựng lại Edge từ mã nguồn mở Chromium của Google. Trình duyệt này cho phép mọi người sử dụng thử vào ngày 15 tháng 1 năm 2020, nhưng khi đó nó vẫn thiếu rất nhiều tính năng chính, chẳng hạn như hỗ trợ Arm64, đồng bộ hóa lịch sử và đồng bộ hóa tiện ích mở rộng.
Có tên mã là Anaheim, Edge Chromium cũng đánh dấu sự trở lại của Microsoft trong việc tạo ra một trình duyệt đa nền tảng.
Ngày hôm nay, Microsoft Edge là trình duyệt quan trọng nhất của Microsoft và một trong những tính năng chính của nó là Chế độ IE. Dù Microsoft đã cảnh báo sự kết thúc của IE trong nhiều năm, một số doanh nghiệp vẫn chưa thể thay đổi trình duyệt. Microsoft xử lý việc này một bằng cách đưa họ sang Chế độ IE, về cơ bản là một tab của Internet Explorer trong Edge.
Hiện tại, Internet Explorer không còn nhận được bất kỳ loại cập nhật bảo mật nào nữa. Trình duyệt này đã chết.
Tham khảo: XDA Developers