TS Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, chính sách tiền tệ đã sử dụng hết khả năng, nên cần sự vào cuộc của chính sách tài khóa.
Chia sẻ tại Diễn đàn chính sách trực tuyến "Hỗ trợ doanh nghiệp trong đại dịch Covid-19: Từ chính sách đến thực tiễn" do Tạp chí Hải quan tổ chức mới đây, TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam chia sẻ, bản thân các ngân hàng cũng là doanh nghiệp, cũng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nhưng phải dùng lợi nhuận của chính mình để chia sẻ với doanh nghiệp. Những khoản nợ dù đã được cơ cấu lại nhưng bản chất nền tảng vẫn là nợ xấu, chỉ khác là ngân hàng không phải trích lập dự phòng rủi ro ngay.
Nhưng Thông tư 14 mới sửa đổi năm 2021 yêu cầu các ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro 3 năm với mức 30% trong năm nay, lại tạo thành áp lực lớn lên TCTD.
Từ khi dịch Covid-19 bùng phát đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành nhiều chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp, trong đó phải kể đến Thông tư 01 và các Thông tư 03, Thông tư 14 sửa đổi về cơ cấu nợ, miễn giảm lãi suất, phí cho khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Theo Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng, các chính sách được NHNN ban hành kịp thời và rất quan trọng để hỗ trợ doanh nghiệp.
Hơn nữa, các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng đã nỗ lực kinh doanh, tăng thu từ dịch vụ để tăng lợi nhuận, cùng với Nghị quyết 42 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu… đã giúp TCTD có nguồn lực để hỗ trợ doanh nghiệp thuận lợi hơn.
Tuy nhiên, các TCTD cũng đối mặt với nhiều khó khăn, nhất là nguy cơ nợ xấu. Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng cho hay, những khoản nợ nhóm 1 cũng có thể bị ảnh hưởng, bởi khó khăn của doanh nghiệp luôn tiềm ẩn, chuỗi cung ứng bị đứt gãy thì nguy cơ nợ xấu trong tương lại rất cao.
Ngoài ra, ngân hàng còn có những khoản lãi dự thu, là những khoản dù quyết toán rồi nhưng không thu được thì vẫn phải thoái thu. Do đó, lợi nhuận trong tương lai của các TCTD có thể sụt giảm, ảnh hưởng đáng kể đến tình hình kinh doanh.
Một vấn đề nữa theo ông Hùng là từ đầu năm đến nay, lượng tiền gửi dân cư đến TCTD giảm, nên khả năng huy động vốn cũng có chiều hướng giảm. Điều này kéo theo nguy cơ khó khăn về nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp sau dịch bệnh, dẫn tới áp lực thanh khoản có thể xảy ra trong tương lại.
TS. Nguyễn Quốc Hùng nhấn mạnh, trước đây có ý kiến cho rằng ngân hàng giảm lãi suất chỉ là “hô hào trên tivi”, nhưng hiện đã giảm thật, làm thật, đây là tín hiệu đáng mừng để hỗ trợ doanh nghiệp, góp phần phục hồi kinh tế.
Tuy nhiên, theo Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng, những khó khăn đang khiến dư địa hỗ trợ doanh nghiệp của các TCTD đã gần như cạn kiệt. Tác động của Covid-19 đến các TCTD có độ trễ, hiện ngân hàng đồng ý cho doanh nghiệp vay nhưng nếu doanh nghiệp không trả được nợ thì ngân hàng là người chịu ảnh hưởng.
Vì thế, để các TCTD có thêm nguồn lực và điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp thì chính sách phải dài hạn.
Chẳng hạn, nếu như có điều kiện thì NHNN nên gộp Thông tư 01, 03 và 14 vào làm một cho thống nhất và phù hợp. Hiện 3 thông tư này cùng có hiệu lực, bản thân TCTD hiệu và hạch toán theo cũng ít nhiều khó khăn, nên lại càng khó cho các doanh nghiệp muốn thực hiện.
TS. Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, chính sách tiền tệ đã sử dụng hết khả năng, nên cần sự vào cuộc của chính sách tài khóa. Chính phủ có thể phát hành trái phiếu, vay từ ngân hàng trung ương như các quốc gia khác… để có đủ nguồn lực hỗ trợ nền kinh tế.
Mới đây, ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã công bố kết quả giảm lãi suất cho vay theo cam kết của 16 ngân hàng thương mại.
Theo đó, từ 15/7 - 31/8 các ngân hàng gồm VietinBank, Vietcombank, Agribank, BIDV, MB, LienVietPostBank, TPBank, VIB, ACB, SeABank, SHB, HDBank, MSB, VPBank, Techcombank và Sacombank (chiếm 75% tổng dư nợ nền kinh tế) đã giảm lãi cho khách hàng tổng cộng 8.865 tỷ đồng, đạt 43,01% so với cam kết.
Các "ông lớn" Big4 giảm lãi nhiều nhất, trong đó Agribank giảm tới 4.726 tỷ đồng, BIDV giảm cho khách hàng 1.032 tỷ, VietinBank giảm 857 tỷ, Vietcombank giảm 943 tỷ đồng.