Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 1988, giá trị xuất khẩu của Việt Nam đạt khoảng 1,01 USD, xếp thứ 6/10 trong khối ASEAN và thứ 90/126 trên thế giới. Đến năm 2021, giá trị xuất khẩu của Việt Nam đã tăng lên đạt khoảng 292,48 tỷ USD, xếp thứ 2/10 trong khối ASEAN và thứ 23 trên thế giới.
Như vậy, giá trị xuất khẩu của Việt Nam từ vị trí thứ 90 lên thứ 23, nhảy 67 bậc trong bảng xếp hạng giá trị xuất khẩu trên thế giới giai đoạn 1988 - 2021 . Cùng với đó, giá trị xuất khẩu của Việt Nam đã tăng hơn 289 lần trong giai đoạn 1988 - 2021.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1988 – 2022. Nguồn: WB.
Năm 2022, giá trị xuất khẩu của Việt Nam đạt khoảng 371,5 tỷ USD, xếp thứ 21 trên thế giới . Với con số này, giá trị xuất khẩu của Việt Nam năm 2022 sẽ nhảy 2 bậc so với năm 2021 và 69 bậc so với năm 1988 trên quy mô thế giới.
Như vậy, giai đoạn 1988 - 2022, giá trị xuất khẩu Việt Nam từng đứng thứ 90, nay nhảy 69 bậc lên vị trí thứ 21, sắp lọt top 20 toàn cầu.
Xét riêng các nước trong khối ASEAN, năm 2022, giá trị xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục xếp thứ 2/10 trong khối ASEAN.
Trong các nước thuộc khối ASEAN-6, Singapore là quốc gia có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất trong năm 2022. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Singapore đạt khoảng 1.028 tỷ USD.
Malaysia có giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 trong khối ASEAN trong năm 2022, giá trị xuất khẩu của Malaysia đạt khoảng 353 tỷ USD. Tổng giá trị xuất khẩu của Indonesia đạt khoảng 291,98 tỷ USD, xếp thứ 4 trong khối ASEAN trong năm 2022.
Giá trị xuất khẩu của Thái Lan đạt 287,07 tỷ USD, xếp thứ 5 trong khối ASEAN trong năm 2022. Về tình hình xuất khẩu năm 2022 của Philippines, giá trị xuất khẩu của Philippines đạt khoảng 78,84 tỷ USD, xếp thứ 6 trong khối ASEAN.
Kim ngạch xuất khẩu các nước trong khối ASEAN giai đoạn 1988 – 2022. Nguồn: WB.
Trong giai đoạn 1988 – 2022, giá trị xuất khẩu của Việt Nam đã nhảy từ vị trí thứ 6 lên thứ 2 trong khối ASEAN. Cùng với đó, giá trị xuất khẩu của Việt Nam đã tăng 367,82 lần sau. Việt Nam là nước có mức tăng lớn nhất về giá trị xuất khẩu trong giai đoạn 1988 - 2022.
Các quốc gia khác đều có sự cải thiện nhưng chậm hơn trong giai đoạn 1988 - 2022 như: Lào (gấp 172,84 lần); Brunei (gấp 93,58 lần); Myanmar (73,68 lần); Campuchia (gấp 34,84 lần); Malaysia (15,07 lần); Thái Lan (14,1 lần); Indonesia (13,83 lần); Singapore (11,37 lần); Philippines (9,14 lần).
Qua đó thấy được, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, đạt được những thành tựu quan trọng, trở thành trụ đỡ cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Trước đây, Việt Nam có 7 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu từ 500 triệu USD trở lên (gồm gạo, giày dép, dệt may, dầu thô, cà-phê, hàng điện tử, hàng thủy sản); đến nay, Việt Nam có 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,8% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó có 8 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 10 tỷ USD, chiếm 69,7%.
Trong nhiều năm qua, cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có sự chuyển dịch mạnh theo hướng tích cực, từ xuất khẩu thô sang xuất khẩu hàng chế biến sâu, hàng công nghệ.
Xét về các thị trường xuất khẩu, trong nhiều năm qua, Việt Nam đã tích cực mở rộng thị trường. Cụ thể, năm 1991, Việt Nam có hơn 20 thị trường xuất khẩu nhưng vẫn tập trung ở các nước ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đến năm 2021, Việt Nam đã phát triển quan hệ thương mại với hơn 230 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Cùng với đó, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại với tất cả các nước công nghiệp phát triển (G7), các khu vực kinh tế lớn và các định chế, thể chế kinh tế, thương mại, tài chính tiền tệ toàn cầu.
Đặc biệt, Việt Nam rất tích cực tham gia ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) để tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu. Tính đến tháng 5/2023, Việt Nam đã tham gia ký kết 15 FTA đang có hiệu lực, 1 FTA đã hoàn tất đàm phán và 3 FTA đang đàm phán.