Hệ thống ngư lôi đa năng Poseidon của Nga. Ảnh minh họa: Sputnik
Về mặt chiến tranh tương lai, lượng choán nước của các tàu không người lái (cả trên mặt nước và dưới lòng biển) khó có thể vượt quá 500 - 1.000 tấn. Chức năng chiến thuật của chúng sẽ là âm thầm tiếp cận mục tiêu và loại bỏ nó. Nhờ mức giá tương đối thấp, một tàu không người lái bị mất tích khi chiến đấu sẽ không gây tác động nghiêm trọng đến kết quả của chiến dịch hải quân cũng như nỗ lực chiến tranh toàn diện trên biển.
Được xem là phương thức tác chiến trên biển mới, các chuyên gia quân sự hiện chú trọng nghiên cứu triển khai thiết bị không người lái không phải đơn lẻ hay theo nhóm nhỏ mà là một bầy đông đảo. Kênh truyền hình RT dẫn lời giới quan sát cho rằng tác chiến “bầy đàn” chính là biện pháp tối ưu nhất.
Nếu đúng như vậy, điều này đặt ra câu hỏi về việc thiết lập các trung tâm kiểm soát đáng tin cậy (để quản lý các đàn tàu không người lái) trên các sở chỉ huy trên không, trên tàu mặt nước, trên tàu chuyên chở.
Đáng chú ý, ở độ sâu lớn hơn – từ 8 đến 11 km - việc truyền tín hiệu và mệnh lệnh điều khiển thậm chí còn tốt hơn so với độ sâu 1 km.
Một mặt, yếu tố này mang lại cho các thiết bị không người lái dưới biển một lợi thế quan trọng khi tiếp cận mục tiêu ở độ sâu vài nghìn mét, vì hiện tại không vũ khí nào có khả năng bắn trúng một vật thể ở vùng nước sâu như vậy. Nhưng mặt khác, vẫn còn thách thức trong việc truyền tín hiệu và lệnh điều khiển một cách đáng tin cậy trong việc thay đổi môi trường truyền dẫn từ không khí sang mặt nước, v.v... Vấn đề này đang được giải quyết và đã có những tiến bộ đáng kể.
Đối với việc điều hướng của tàu không người lái, vấn đề này có thể được giải quyết thông qua việc sử dụng các con quay hồi chuyển tiên tiến. Trên quãng đường dài 1.000 km, độ sai lệch của chúng là dưới 100 mét, giúp dẫn đường cho các tàu không người lái đến gần mục tiêu với độ chính xác cao.
Tiếp theo là vấn đề phát triển và sản xuất tàu chuyên chở ở cả trên mặt nước và dưới nước cho các tàu biển không người lái này.
Tàu biển không người lái trên biển đã làm đảo lộn toàn bộ khái niệm về các phép đo trên tàu mặt nước (chiều dài, chiều rộng, độ sâu khoang tàu, độ dịch chuyển). Rõ ràng, chúng chính là tương lai của chiến tranh trên biển.
Các nền kinh tế đóng tàu hàng đầu cũng đi theo con đường tương tự. Ví dụ, Mỹ đang nghiên cứu Sea Hunter - phương tiện mặt nước không người lái tự hành được thiết kế cho các hoạt động chống tàu ngầm. Trong những năm gần đây, Hải quân Mỹ đã mở rộng khả năng tàu biển không người lái: không chỉ làm nhiệm vụ trinh sát mà còn có thể sử dụng vũ khí chống lại các mục tiêu trên mặt nước và tham gia chiến tranh điện tử.
Dự án phát triển của Sea Hunter là một phần của chương trình Tàu không người lái chống tàu ngầm (ACTUV) được triển khai vào năm 2010 và do Cơ quan Dự án Nghiên cứu Tiên tiến Quốc phòng (DARPA) tài trợ.
Theo văn phòng Đánh giá Chi phí và Đánh giá Chương trình (CAPE), nơi cung cấp phân tích độc lập về các chương trình của Lầu Năm Góc, Hải quân Mỹ sẽ sớm sở hữu hàng chục phương tiện mặt nước và dưới nước không người lái.
Do đó, các tàu khu trục tàng hình lớp Zumwalt sẽ được tái sử dụng để điều khiển các tàu không người lái và UAV tự hành trong các trận chiến trên biển. Hải quân Mỹ cũng có kế hoạch đại tu và nâng cấp toàn diện hạm đội của mình để tích hợp thêm nhiều tàu biển có người lái và không người lái.
Giữa cuộc đua của vô số phương tiện không người lái trên mặt nước và dưới nước, có một điều chắc chắn là quốc gia đầu tiên triển khai công nghệ này sẽ có lợi thế hơn đối thủ của mình trong chiến tranh hải quân cũng như trở thành người thống trị đại dương.