Đánh giá tác động môi trường của Formosa sơ sài, người ký phê duyệt nói gì?

Nguyễn Hoài |

Ông Nguyễn Khắc Kinh, người ký phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường (gọi tắt ĐTM) của Formosa, chia sẻ với Tiền Phong lý do vì sao ĐTM sơ sài nhưng vẫn được phê duyệt.

Thưa ông, Báo cáo đánh giá tác động môi trường dự án khu liên hợp gang thép và cảng Sơn Dương Formosa Hà Tĩnh giai đoạn 1-1 (gọi tắt ĐTM) được các chuyên gia cho là sơ sài, giản lược, không dùng được. Với tư cách là người ký phê duyệt, ông đánh giá như nào về ĐTM của dự án?

Đúng là ĐTM của dự án Formosa sơ sài nhưng lúc đó tất cả các ĐTM khác đều thế cả.

Vì sao sơ sài? Lâu nay tôi vẫn lưu ý, tiếng Việt dịch là báo cáo đánh giá tác động môi trường nhưng thực ra đó là dự báo tác động môi trường. Đã là khoa học dự báo thì không bao giờ chính xác 100%.

Vì sao không chính xác? Có hai căn cứ chính để làm báo cáo đánh giá tác động môi trường là thông tin cho dự báo và phương pháp dự báo.

Việt Nam rất thiếu thông tin cho dự báo. Có hai nhóm thông tin cần cho dự báo là thông tin về dự án và thông tin về môi trường chịu tác động.

Về thông tin dự án, luật khi ấy quy định, ĐTM làm căn cứ phê duyệt chủ trương đầu tư nên thông tin dự án lúc ấy rất sơ sài, chưa có thiết kế cơ sở, chưa rõ công nghệ, nguyên vật liệu đầu vào...

Thông tin về môi trường cũng rất thiếu thốn.

Quy định là chủ dự án phải đi điều tra, đánh giá môi trường nhưng nói thật là chủ dự án có đi làm cũng không tin được trong khi số liệu của cơ quan nhà nước thì không có hoặc què quặt, không đồng bộ, không sử dụng được.

Chưa kể đến tiền ít, thiếu thời gian. Tôi có hỏi một số chuyên gia của Canada, làm ĐTM một dự án giống như dự án Nhà máy thủy điện Hòa Bình thì mất bao nhiêu thời gian, tiền bạc.

Họ ước tính mất 5 năm và 5 triệu USD. Việt Nam trung bình mỗi ĐTM khoảng 700-800 triệu đồng, làm trong vòng 2-3 tháng.

Con người có giỏi như thế nào thì với tiền ấy, thời gian ấy cũng khó mà yêu cầu cao được.

Ngoài ra, về chủ quan, đội ngũ làm ĐTM ở Việt Nam rất yếu. Nhiều cơ quan tư vấn đứng ra làm ĐTM nhưng khi hỏi lại thì ú ớ, không giải thích được.

Vì thế, ĐTM sơ sài là không tránh khỏi. Mình có yêu cầu cao hơn nữa cũng không khả thi, lại bị cho là gây phiền hà.

Tuy nhiên, ĐTM là dự báo, là cơ sở để phê duyệt chủ trương đầu tư nên thôi thì méo mó có hơn không, dự báo được bao nhiêu thì dự báo, được 20%, 30% cũng phải chấp nhận. Trước chưa có luật, ta có làm dự báo đâu.

Nhưng ĐTM là văn bản pháp lý, tại sao sơ sài như thế, ông vẫn ký?

Tôi không trực tiếp tham gia thẩm định ĐTM của dự án này…

…Khi hội đồng thẩm định đã phê duyệt ĐTM của dự án, tôi được Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là ông Mai Ái Trực ủy quyền ký ban hành.

Khi ký ban hành tôi rất băn khoăn. Báo cáo ĐTM này cực kỳ nhiều cái không rõ nhưng hội đồng vẫn phê duyệt nên tôi càng băn khoăn.

Vậy ông có lên tiếng không?

Lên tiếng gì? Tôi chỉ là người ngồi ký. Dự án đã có cả hội đồng thẩm định và đồng ý phê duyệt. Mình không ký phê duyệt mà không có lý do tâm phục khẩu phục thì không được mà mình làm sao giỏi tất cả các lĩnh vực.

Trong khi hội đồng có nhiều người, gồm cả những người có chuyên môn sâu, họ đã đồng ý rồi. Hơn nữa, lúc ấy phong trào đầu tư đang hầm hập. Không phê duyệt thì bị bảo là gây khó khăn cho đầu tư.

Thời điểm làm ĐTM không có thông tin nên sơ sài cũng buộc phê duyệt với hy vọng nay mai nó sẽ ổn hơn.

Vì vậy, trong quyết định phê duyệt ĐTM, tôi có lưu ý những điểm chủ đầu tư phải theo dõi sát sao, nhất cứ nhất động đều phải theo dõi, thậm chí dừng lại.

Hơn nữa, ĐTM chỉ là dự báo môi trường, làm căn cứ quyết định chủ trương đầu tư. Sau khi phê duyệt đầu tư, quá trình thực hiện mới đầy đủ thông tin, khi đó phải chi tiết dần, bổ sung dần. Thế giới làm khác ta.

Họ cũng có ĐTM nhưng sau khi có phê duyệt dự án, ĐTM cất vào ngăn kéo, làm tư liệu lịch sử để nếu có vấn đề gì thì mang ra đối chứng.

Còn khi triển khai dự án họ phải lên kế hoạch, chương trình bảo vệ môi trường rất chi tiết, làm căn cứ giám sát. Khi vận hành dự án, người ta chuyển sang một công cụ hoàn toàn mới là kiểm toán môi trường.

Tức là họ chia ra nhiều giai đoạn để quản lý.

ĐTM giống như dự báo bão, bão đến rồi thì còn ý nghĩa gì nữa. Việt Nam vẫn dùng cách quản lý ĐTM cách đây 20 năm nên hậu quả là khó tránh khỏi.

Tức là dù sơ sài, thiếu thông tin vẫn phải dùng làm công cụ giám sát?

Khi Formosa gây ra sự cố, vẫn đang ở giai đoạn chuẩn bị, chưa sang vận hành nên vẫn dùng ĐTM làm công cụ quản lý môi trường trong khi lẽ ra giai đoạn này, khi đã có đầy đủ thông tin chi tiết của dự án, phải xây dựng một chương trình, kế hoạch bảo vệ môi trường rất chi tiết, làm cơ sở quản lý môi trường.

Việt Nam mình có chương trình, kế hoạch bảo vệ môi trường nhưng cũng lại đưa trong ĐTM. Mà ĐTM, như tôi nói, chỉ là cơ sở để quyết định chủ trương đầu tư.

Lúc bấy giờ đã có đủ thông tin đâu, đã biết thiết kế cơ sở thế nào, đã biết công nghệ gì, nguyên liệu gì mà làm kế hoạch, chương trình quản lý môi trường chi tiết được.

Sau đó, chúng ta lại cứ đem cái ĐTM tù mù ấy ra mà quản lý môi trường.

Xin cảm ơn ông.

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại