Những ngày tù đày
Chúng tôi tìm gặp cựu chiến binh - cựu tù Phú Quốc Hoàng Minh Lý (SN 1941, xóm Khoa Đà, xã Hưng Tây, Hưng Nguyên, Nghệ An) khi ông đang cùng đoàn cựu chiến binh tham gia chuyến nghỉ dưỡng tại Trung tâm điều dưỡng người có công với cách mạng ở thị xã Cửa Lò. Tròn 50 năm trở về sau khi Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam được ký kết, những ký ức gian khổ nhưng hào hùng vẫn còn mãi trong tâm trí người lính già.
Cựu chiến binh Hoàng Minh Lý kể về quá trình chiến đấu, bị thương và bị đưa vào nhà tù Phú Quốc.
“Chuẩn bị cho đợt 3, cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, tôi được điều động, phối thuộc cho Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 2, Sư đoàn 324, Quân khu 4. Trong lần hành quân xuống đồng bằng, đơn vị bị địch phục kích, bao vây ở xã Hải Vĩnh, huyện Hải Lăng, Quảng Trị. Lúc đó, tôi bị thương nặng, được đưa đến Trạm phẫu 34 để điều trị. Trạm phẫu bị càn quét, tôi cùng nhiều thương binh bị địch bắt, đưa về ‘Phòng Nhì’ Quân đoàn 1 để khai thác thông tin”, cựu binh Hoàng Minh Lý nhớ lại.
Bà Ngô Thị Lương vợ ông Lý.
Ở trong tù, người lính trẻ bị tra tấn bằng những cách thức dã man nhất. “Tôi bị đổ nước xà phòng đặc vào miệng, bị chúng dùng cả giày đinh nhảy lên bụng dẫm, bị bắt nằm dưới đèn điện 1.000W...”, ông Lý kể. Dù bị tra tấn dã man, ông cũng một mực khai không biết gì. Một tháng bị tra tấn nhưng không khai thác được gì, địch đưa ông xuống tàu, đày ra Phú Quốc. Ông bước vào một trận chiến mới mà không biết rằng, ở quê nhà, người vợ trẻ nhận được giấy báo tử của chồng...
Ở nơi “địa ngục trần gian” với các chế độ tù đày vô cùng khắc nghiệt, nhưng người chiến sĩ cách mạng vẫn một lòng trung thành với Đảng, với cách mạng, với niềm tin tưởng mãnh liệt cách mạng nhất định sẽ thành công. “Bị địch tra tấn dã man, anh em chúng tôi xác định sẽ không có con đường sống để quay về. Song mọi người vẫn luôn tin tưởng, kiên định rằng cách mạng sẽ thành công, chỉ là sớm hay muộn”, ông Lý bộc bạch.
Trong tù, ông cùng đồng đội tiếp tục các phong trào đấu tranh đòi dân sinh, cải thiện điều kiện sống, sinh hoạt, chống đàn áp, áp bức và các hình thức tra tấn hà khắc của bọn cai ngục. “Có đợt chúng tôi đấu tranh bằng cách tuyệt thực kéo dài đến 9 ngày. Lo sợ dư luận, bọn cai ngục phải cho người nấu cháo loãng, cạy miệng đổ cho tù nhân cũng như đáp ứng một số yêu cầu về cải thiện điều kiện ăn, ở, sinh hoạt…”, ông Lý kể.
Hạnh phúc ngày trở về và chuyện người vợ không nhận chồng
Giữa chốn ngục tù, những người lính chưa bao giờ ngừng tin vào ngày thắng lợi của cách mạng. Thông tin về Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam “lọt” vào trại giam sau khoảng một tháng so với thời điểm ký kết thực sự là một sự kiện chấn động. “Chúng tôi reo hò, ôm nhau vừa cười, vừa khóc. Đêm đó, không ai ngủ được, tất cả háo hức nghĩ đến giây phút trở về...”, cựu binh nhớ lại.
Sáng 19/3/1973, ông Lý cùng đồng đội được thông báo tập trung, phát quần áo mới, kiểm tra thông tin cá nhân và lên xe ra sân bay rồi được chở thẳng ra Phú Bài (Huế), sau đó được chở bằng ô tô ra phía Nam bờ sông Thạch Hãn (Quảng Trị). Ở khu vực tập trung, ông Lý nhìn thấy lá cờ Tổ Quốc kiêu hãnh tung bay ở phía bờ Bắc. Trên bờ, dưới bến, bộ đội, bà con nhân dân đã chuẩn bị thuyền để đón những người con xa trở về. Ông Lý cùng đồng đội đứng lặng bên này, nhìn về vùng đất giải phóng, nước mắt cứ chực trào...
“Được dẫn ra bờ sông để xuống thuyền, chúng tôi quên hết những đau đớn. Không ai bảo ai, tất cả cởi bỏ bộ quần áo mà địch phát trước đó đang mặc trên người, chỉ còn độc chiếc quần đùi, lao xuống sông, bơi về phía bên kia. Dưới sông, bộ đội giải phóng cũng chèo thuyền ào ra. Tôi bơi ra đến giữa sông, được hai đồng đội đón, dìu lên thuyền đưa vào bờ. Sau 4 năm, 8 tháng sống trong cảnh ngục tù, tôi đã trở về, trong vòng tay của đồng đội, đồng chí và của đồng bào”, người lính già rưng rưng.
Hình ảnh những người lính chỉ độc chiếc quần đùi, lao qua sông trở về trong vòng tay của đồng đội, đồng chí và của đồng bào
Hồi tưởng ngày trở về của chồng, bà Ngô Thị Lương (1942, vợ ông Lý) nghẹn ngào: “Hai năm sau mang bầu đứa con thứ hai, tôi bặt tin chồng. Năm 1969, gia đình nhận được giấy báo tử, là cái giấy báo tử thứ hai trong năm ấy, nhìn các con nhỏ dại, lòng tôi như đứt từng khúc ruột”.
Mất chồng, mất đi chỗ dựa tinh thần nhưng bà Lương không cho phép bản thân yếu mềm. Bà lao vào sản xuất, tham gia hoạt động đoàn thể để quên đi nỗi đau. “Trong tâm trí, tôi nghĩ đã mãi mãi mất chồng. Cho đến một ngày giữa năm 1973, tôi nhận được lá thư và một bức ảnh được gửi về từ Quảng Ninh. Trong bức ảnh là người đàn ông gầy gò, hốc hác, tóc bờm xờm dựng đứng, một chân cụt đến đầu gối. Tôi nhìn ảnh, không nhận ra chồng, bảo đây không phải là anh Lý”, bà Lương tâm sự.
Đầu năm 1974, đang ngồi sàng gạo, bà Lương thấy chồng khoác ba lô bước vào sân. Nhìn thấy chồng bằng da, bằng thịt, bà không dám tin. Hai người đứng nhìn nhau, đôi chân bà như chôn dưới đất, đứng bất động, nước mắt cứ lăn dài...
Trở về quê hương, ông Lý vẫn hăng hái tham gia sản xuất, các phong trào đoàn thể, nhiều năm liền là Chủ tịch Hội chiến sỹ cách mạng bị địch bắt tù đày huyện Hưng Nguyên. Ông vinh dự được Nhà nước tặng nhiều huân huy chương cao quý. “Năm 1978, trong một trận lũ lịch sử, nước tràn vào nhà, mọi đồ đạc, giấy tờ của tôi bị trôi hết nên không làm được chế độ thương binh. Hiện tại tôi chỉ hưởng chế độ tù binh nhà tù Phú Quốc”, ông Lý chia sẻ thêm.