Đoàn Quân Giải phóng lên đường, các đại biểu Quốc dân đại hội trở lại đình họp. Hơn sáu mươi đại biểu hầu như đều hướng mắt về Ông Cụ vừa chăm chú vừa trìu mến. Nhưng không dám hỏi vì giữ bí mật là một quy chế nghiêm ngặt của khu giải phóng. Lúc vào hội trường, Ông Cụ ngồi ở hàng ghế thứ hai. Các đại biểu giới trí thức, nhân sĩ ngồi trên hàng ghế đầu.
Tôi thấy ông Hoàng Đạo Thuý, ông Hoàng Văn Đức... thỉnh thoảng ngoảnh lại hàng ghế phía sau nhìn Ông Cụ. Tôi nghĩ thầm “có phải cụ Nguyễn Ái Quốc đó không?”. Bởi vì, tại hội trường đang trưng bày các thứ chiến lợi phẩm và các sách về quân sự trong đó có một số cuốn do Nguyễn Ái Quốc biên soạn như “Cách đánh du kích” và dịch “Tôn tử binh pháp”...
Đại hội đã thông qua 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa, thông qua Quốc hiệu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thông qua Quốc kỳ, Quốc ca.
Đến lúc bầu Uỷ ban Giải phóng Dân tộc, ông Phạm Văn Đồng trân trọng giới thiệu cụ Hồ Chí Minh – nhà cách mạng từng trải năm châu bốn biển đã đem về cho dân ta con đường cứu nước, cứu nòi...
Cả Đại hội đứng dậy biểu thị sự tín nhiệm tuyệt đối bầu Ông Cụ làm Chủ tịch. Ngày ấy chưa có thông lệ vỗ tay. Nhưng tiếng thốt lên tự đáy lòng: “Nước Nam ta nay đã có chủ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với đại biểu Quốc dân Đại hội tại Đình Tân Trào. Tranh sơn dầu: Họa sĩ Cao Thương
Bấy giờ tôi mới nói nhỏ với ông Nguyễn Lương Bằng:
– Cụ Nguyễn Ái Quốc đã về, thỏa lòng dân ta bao nhiêu năm chờ mong như con mong đợi mẹ về!
Ông Nguyễn Lương Bằng cười rất vui:
– Quả vậy. Tôi được gặp lại Ông Cụ, mừng đúng như hồi tấm bé đón mẹ về. Hồng phúc cho dân tộc mình anh ạ. Nhưng rất lo cho sức khỏe của Ông Cụ! Cụ vẫn còn sốt đó anh!
Ông Nguyễn Lương Bằng trao đổi luôn với tôi:
– Ông Cụ đang cần một cán bộ giúp việc có năng lực, có uy tín trong giới trí thức và các giới đồng bào Hà Nội, các thành phố lớn. Nhưng phải có đức tính trung thực, liêm khiết và ít nhất cũng phải giỏi hai sinh ngữ. Sau cuộc gặp anh Ông Cụ đã chọn anh rồi đó.
Tôi nói với ông Nguyễn Lương Bằng:
– Anh cân nhắc cho kỹ, vốn hiểu biết của tôi có hạn. Liệu tôi có giúp được phần nào những công việc của Ông Cụ không?
– Tôi đã nói kỹ về anh với Ông Cụ rồi. Anh thu xếp dần đi, lúc Ông Cụ về Hà Nội anh đến làm việc với Ông Cụ ngay...
Tôi được phân công chuyên trách về Ông Cụ. Việc đầu tiên là lo ngay quần áo mặc thường nhật và lễ phục cho Ông Cụ. Tôi gặp ông bà Trịnh Văn Bô để nhờ chọn các loại vải để may cho Ông Cụ mấy bộ mặc thay đổi về mùa hè, mùa đông. Ông Trịnh Văn Bô có sẵn một tủ áo quần sang trọng, chưa hề xỏ tay. Bà Trịnh Văn Bô đã đưa ra cho chúng tôi chọn vừa bộ nào thì lấy mà dùng. Nhưng tầm người Ông Cụ xem chừng không hợp một bộ nào cả.
Ông bà Trịnh Văn Bô chọn vải, ưng ý với nhau rồi, tôi đến xin ý kiến Ông Cụ. Tôi cảm động mà cũng bất ngờ với Ông Cụ:
– Tôi mặc xuềnh xoàng thôi. Không len, dạ đắt tiền làm gì, cốt tươm tất, giản dị, không phải cà vạt cổ cồn gì cả...
Tôi chợt nhớ ra kiểu áo của Stalin mà tôi đã nhìn thấy ảnh trên một tờ báo. Tôi đến làm việc với Ông Cụ, tôi ướm thử:
– Kiểu áo Stalin không cần phải cà vạt cũng giản tiện mà oai vệ của nguyên thủ quốc gia, Bác ạ.
Ông Cụ cười tủm:
– Nhưng mình không phải là Stalin.
Tôi nhận ra ngay, Ông Cụ là người học hỏi những tinh hoa chứ không bắt chước một khuôn mẫu sẵn.
Tôi mời ông Phú Thịnh,chủ hiệu may ở phố Hàng Quạt, tới và trình bày:
- Tôi có người nhà là cụ lý ở quê ra thăm Thủ đô của nước Việt Nam mới. Tôi muốn cắt vài bộ đồ đáng giá một tý. Nhưng cụ không thích cho nên chỉ bằng vải kaki, nhờ anh cắt may cho vài bộ áo bốn túi, kín cổ mặc khi có việc long trọng còn lúc thường nhật mở khuy áo thoải mái, đi giày hay guốc dép mặc đều hợp với cụ lý nhà tôi.
Ông Phú Thịnh ngẫm nghĩ một lúc, nói dè dặt:
- Tôi đã mường tượng ra một kiểu áo bốn túi, cổ bẻ, lúc cần kín cổ thì cài khuy áo lại. Chỉ có tính toán cái ve áo nhọn hay tù?
Tôi lấy tờ báo có ảnh Stalin chìa ra với ông Phú Thịnh.
Ông cầm lấy ngắm nghĩa:
- Áo này... oách lắm. Kiểu tướng soái, nhà binh oai vệ. Không hợp với các cụ người nhà mình. Thôi được, tôi sẽ liệu để có bộ áo hợp ý cụ lý.
Hai hôm sau, ông Phú Thịnh đem hai bộ áo quần đến. Tôi ưng ý, nói với ông Phú Thịnh:
- Cảm ơn anh, chắc chắn cụ lý sẽ rất vui lòng với bộ quần áo này.
Ông Phú Thịnh cười ý nhị:
- Tôi trộm nghĩ cụ lý này không phải là lý trưởng mà có lẽ một cụ lý... khác thường.
Tôi cười đáp lại tình cảm tinh tế của ông.
Lựa lúc Ông Cụ tập thể dục, tắm sáng xong, tôi đưa bộ quần áo mới vào. Ông Cụ ướm thử, ngắm kỹ cổ áo, mỉm cười:
- Được. Thế này là hợp với mình.
Tôi rất vui và thầm nghĩ, trong vài ngày nữa, ông Phú Thịnh sẽ vô cùng sung sướng và vinh dự khi được nhìn thấy bộ quần áo mình may cho "cụ lý" khi đó lại là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Quảng trường Ba Đình.
Tiếp sau bộ quần áo của Ông Cụ, tôi còn mời ông Phú Thịnh may tiếp quần áo cho các ông Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh... Bà Trịnh Văn Bô đưa cho chúng tôi hàng súc tuytsi, kaki... với tiếng lòng:
- Các anh tha hồ may bao nhiêu bộ tôi cũng cung cấp đầy đủ...
Vũ Đình Huỳnh (1905–1990) là một cựu chính trị gia Việt Nam. Ông là người đầu tiên được phong quân hàm sĩ quan và là Đại tá đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - được Chủ tịch Hồ Chí Minh phong Đại tá cận vệ trong phái đoàn dự Hội nghị Fontainebleau 1946 ở Pháp.
Ông có bí danh là Hoàng Tư. Ông nguyên là Bí thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc Công thương Liên khu 3-4; sau làm Vụ trưởng Vụ Lễ Tân Bộ Ngoại giao, Vụ trưởng trong Ban Thanh tra Chính phủ.
Những nhân vật quan trọng như Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Hoàng Quốc Việt, Bùi Lâm, Nguyễn Khang… từng tá túc trong nhà ông Huỳnh tại Hà Nội.
Tại Quốc dân Đại hội diễn ra trong hai ngày 16 và 17/8/1945 tại Tân Trào, Tuyên Quang, ông Huỳnh đã được chọn làm bí thư riêng cho Bác Hồ trong các việc đại sự. Sau khi chính quyền mới thành lập, ông Huỳnh và gia đình tiếp tục trợ giúp cho Chủ tịch Hồ Chí Minh.