Bất chấp một loạt cam kết về khí hậu, lượng khí thải nhà kính (GHG) toàn cầu vẫn tiếp tục tăng, đạt mức cao mới là 53 tỷ tấn CO2 tương đương vào năm 2023, Statista (Đức) báo cáo số liệu mới nhất vào 15/1/2025.
Với ngân sách carbon toàn cầu còn lại để hạn chế sự nóng lên ở mức 1,5 độ C đang giảm nhanh chóng và năm 2024 được xác nhận là năm nóng nhất trong lịch sử, cuộc đua để đạt được mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào giữa thế kỷ và tránh những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu đang diễn ra.
2025 là thời điểm bắt đầu của cuộc đua kéo dài một năm với nhiều sự kiện không thể lường trước được - Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) nhận định.
Nếu những đợt nắng nóng như thiêu như đốt con người chúng ta, hay những trận mưa gây thảm họa lụt lội khắp nơi khiến bạn cho rằng đó không phải hệ quả của biến đổi khí hậu nhân tạo thì bài viết của National Geographic (Mỹ) là lời nhắc nhở chúng ta một cách thẳng thắn về sự nóng lên toàn cầu - kết quả của việc xả CO2 tương đương ồ ạt vào bầu khí quyển mỗi năm - và cách nó tác động sâu sắc đến con người, hành tinh với tốc độ đáng báo động như thế nào.
1. "2024 có thể là năm mát nhất trong phần đời còn lại của bạn"
Chương trình quan sát Trái đất Copernicus của Liên minh Châu Âu (EU) cho biết, năm 2024 là năm nóng nhất được ghi nhận. Nhưng, nhiều năm sau nữa, bạn sẽ không còn nhớ năm này là một năm đặc biệt nóng nữa, vì 2024 có thể sẽ là một trong những năm mát mẻ nhất trong quãng đời còn lại của bạn.

Năm 2023 đã phá vỡ kỷ lục nhiệt độ trước đó được thiết lập vào năm 2016, với mỗi tháng bắt đầu từ tháng 6 đều đạt mức nóng nhất trong lịch sử được ghi nhận. Những con số đó tiếp tục tăng vào năm 2024. Ảnh: Charlie Riedel/AP Photo
Khi loài người tiếp tục đốt nhiên liệu hóa thạch và làm Trái đất nóng lên, bản thân tương lai của bạn sẽ nhìn lại hiện tại như một thời điểm thời tiết êm dịu hơn, mùa đông nhiều tuyết hơn và nhiệt độ ôn hòa hơn. Đối với trẻ em sinh ra ngày nay, điều kiện khí hậu nóng hơn, nhiều bão hơn trong tương lai sẽ trở nên... bình thường.
Điều này là do một thủ thuật tâm lý được gọi là "hội chứng thay đổi đường cơ sở", khiến mọi người quen dần với bất kỳ điều kiện môi trường nào mà họ đang trải qua. Khi nói đến biến đổi khí hậu, hội chứng thay đổi đường cơ sở có thể khiến xã hội bình thường hóa nhiệt độ ngày càng nóng hơn và một loạt các tác động khác đến hành tinh.
Một số chuyên gia cho rằng đây là một vấn đề nghiêm trọng. "Hội chứng thay đổi đường cơ sở có thể hoạt động như một rào cản mạnh mẽ bằng cách làm giảm sự công nhận của xã hội về vấn đề nóng lên toàn cầu" - Masashi Soga, một nhà sinh thái học ứng dụng tại Đại học Tokyo, Nhật Bản cho biết.
2. Bước nhảy vọt kỷ lục
Hai năm trước, các nhà khoa học về khí hậu đã nói về một kỷ lục nhiệt độ mới đáng kinh ngạc. Năm 2023 không chỉ là năm ấm nhất trong gần 175 năm ghi chép sổ sách, mà còn ấm hơn khoảng 0,15 độ C so với năm 2016 - năm nóng nhất trước đó được ghi nhận.
Xét về mặt hành tinh, đây được coi là một bước nhảy vọt lớn.
"Hai năm qua đã có sự tăng tốc đáng kể về nhiệt độ", Gavin Schmidt, Giám đốc Viện nghiên cứu không gian Goddard của NASA - nơi tập hợp hồ sơ nhiệt độ toàn cầu từ hàng nghìn trạm thời tiết, phao đại dương và đài quan sát trên tàu, cho biết.
Trong khi Nhà khí hậu học Gavin Schmidt cho biết nhiệt độ toàn cầu đã tăng dần kể từ những năm 1970 và tăng với tốc độ nhanh hơn trong khoảng thập kỷ qua, thì năm 2023 và năm 2024 thực sự nổi bật.
Một phần là do hiện tượng El Niño gần đây nhưng Schmidt cho biết nó cũng có thể chỉ ra sự gia tăng của hiện tượng nóng lên toàn cầu do con người gây ra - bắt nguồn từ thực tế là chúng ta liên tục phát thải khí nhà kính.
Dù thế nào đi nữa, nhiệt độ sẽ tiếp tục tăng chừng nào con người còn tiếp tục thải thêm CO2 vào khí quyển. "Thế giới có khả năng sẽ vĩnh viễn vượt ngưỡng nóng lên 1,5 độ C. Từ đó, tương lai sẽ tiếp tục nóng hơn, với các chính sách khí hậu hiện tại, nhiệt độ sẽ còn tăng lên 3 độ C vào năm 2100".
Cùng với sự gia tăng nhiệt độ, các nhà khoa học dự đoán rằng nhân loại sẽ tiếp tục chứng kiến sự gia tăng lượng mưa cực đoan, những ngày quá nóng và các thảm họa liên quan đến khí hậu như cháy rừng và hạn hán.
3. Con người đang xả bao nhiêu tỷ tấn CO2?
Báo cáo năm 2024 về lượng khí thải khí nhà kính của tất cả các quốc gia trên thế giới do EDGA của Ủy ban Châu Âu (EC) thực hiện cho biết:
CO2 tiếp tục phá vỡ nhiều kỷ lục
Kể từ đầu thế kỷ 21, lượng khí thải nhà kính (GHG) toàn cầu đã theo xu hướng tăng, chủ yếu do lượng khí thải tăng từ Trung Quốc và các nền kinh tế mới nổi khác. Kết quả là, nồng độ khí nhà kính trong khí quyển tăng đáng kể, làm tăng hiệu ứng nhà kính tự nhiên, có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự sống trên Trái đất.

Sự tích tụ carbon dioxide trong khí quyển phần lớn là do con người. Ảnh: Charlie Riedel/AP
Lượng khí thải CO2 hóa thạch vẫn đang gia tăng ở cấp độ thế giới bất chấp các thỏa thuận giảm thiểu biến đổi khí hậu. Năm 2024, lượng khí thải CO2 hóa thạch sẽ đạt 37,4 tỷ tấn, WMO thông tin.
CO2 là GHG chính được thải ra thông qua các hoạt động của con người và là tác nhân lớn nhất gây ra biến đổi khí hậu, gây ra 70% nhiệt độ bề mặt toàn cầu tăng kể từ năm 1851.
2 nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất
Các nguồn phát thải GHG lớn nhất chính là ngành điện. Đây là nguồn phát thải GHG lớn nhất từ các hoạt động của con người, với lượng phát thải hàng năm khoảng 15 tỷ tấn CO2 tương đương. Gần 70% lượng phát thải của ngành điện là do các nhà máy điện chạy bằng than tạo ra.
Con người vẫn tiếp tục xả hàng chục tỷ tấn CO2 tương đương vào bầu khí quyển. Ảnh: MSN
Giao thông vận tải là ngành gây ô nhiễm thứ hai vào năm 2023, chiếm 16% lượng phát thải toàn cầu. Phần lớn lượng phát thải từ ngành này - đã tăng gần gấp đôi kể từ năm 1990 - xuất phát từ các phương tiện giao thông đường bộ, đặc biệt là ô tô chở khách.
Nước nào phát thải nhiều nhất thế giới?
Theo phân tích của Statista (Đức), Trung Quốc là nước phát thải khí nhà kính lớn nhất thế giới vào năm 2023, tạo ra khoảng 30% tổng lượng khí thải toàn cầu trong năm đó. Lượng khí thải của quốc gia châu Á này đã tăng gần gấp 3 lần kể từ đầu thế kỷ lên hơn 13 tỷ tấn CO2 tương đương mỗi năm, do công nghiệp hóa nhanh chóng và tăng trưởng kinh tế.
Một mô hình tương tự đã được quan sát thấy ở các nước đang phát triển khác, bao gồm cả Ấn Độ, nơi lượng khí thải đã tăng gấp đôi kể từ năm 2000 và trở thành nước có lượng khí thải cao thứ ba trên toàn cầu.
Để so sánh, Mỹ, nước phát thải lớn nhất cho đến năm 2005, đã cắt giảm 17% lượng khí thải của mình kể từ năm 2000. Tuy nhiên, Mỹ vẫn là nước phát thải lớn nhất trong lịch sử cho đến nay, với lượng khí thải tích lũy hơn 500 tỷ tấn CO2 tương đường kể từ khi Cách mạng Công nghiệp bắt đầu.
Giải pháp là gì?
Ủy ban liên chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC) cảnh báo, lượng khí thải GHG toàn cầu cần phải được cắt giảm ít nhất 43% so với mức năm 2019 vào năm 2030 để giữ nhiệt độ toàn cầu trong giới hạn 1,5 độ C.
Tuy nhiên, theo các chính sách hiện tại, dự kiến sẽ có khoảng cách phát thải là 24 tỷ tấn CO2 tương đương để phù hợp với mục tiêu này.
Mặc dù triển khai năng lượng sạch tăng trưởng đáng kể, nhưng sự chuyển dịch sang năng lượng tái tạo và điện khí hóa vẫn chưa đủ nhanh để thay thế nhiên liệu hóa thạch trở thành nguồn năng lượng chính chiếm ưu thế trên toàn thế giới.
Do đó, các dự báo cho thấy đầu tư toàn cầu vào các công nghệ năng lượng sạch, bao gồm lưu trữ pin và năng lượng tái tạo, sẽ cần phải tăng gấp đôi so với mức hiện tại vào năm 2030 để phù hợp với mục tiêu đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Trong số các quốc gia phát thải lớn, Mỹ, Canada, Brazil, Úc và Liên minh Châu Âu đã cam kết đạt được mức trung hòa khí hậu vào năm 2050; Trung Quốc và Ả Rập Xê Út cam kết đạt mục tiêu tương tự vào năm 2060, trong khi Ấn Độ đặt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2070.
Tham khảo: National Geographic, Ủy ban Châu Âu, Statista